Tư tưởng Hồ Chí Minh về “thượng tôn hiến pháp, pháp luật” và ý nghĩa trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay

31/03/2025 15:23

(kiemsat.vn)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn Hiến pháp, pháp luật là di sản tư tưởng vô cùng quý giá mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta. Vì vậy, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người là cơ sở để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022.

Là người đặt nền móng cho sự ra đời, phát triển của Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của Hiến pháp, pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội mới. Người coi “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật” là nguyên tắc “bất biến”, là đặc trưng tiêu biểu của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là điều kiện bảo đảm hiện thực hóa quyền làm chủ của Nhân dân. Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của Nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết”. Thực tế chứng minh rằng, nếu Việt Nam không có Hiến pháp, không có Nhà nước điều hành bằng pháp luật, Nhân dân không “thượng tôn pháp luật”, thì nền độc lập của đất nước, sự tôn nghiêm của chính quyền, cũng như trật tự xã hội sẽ không được bảo đảm, Nhân dân sẽ không có cơ sở pháp lý để thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do, dân chủ. Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và dân tộc ta di sản tư tưởng vô cùng to lớn và quý báu, trong đó có tư tưởng về “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật”.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật”

Bản chất NNPQ là đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý và điều hành xã hội. Trong điều kiện Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa “thoát thai” từ chế độ thực dân nửa phong kiến, lại phải trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài, trình độ dân chủ của người dân còn thấp, nhưng bằng tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh đã phác thảo tư tưởng về mô hình NNPQ lấy “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật” là nguyên tắc bất biến.

Một là, xây dựng Hiến pháp và pháp luật dân chủ, công bằng, nhân văn.

Năm 1919, trong “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Vécxay, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu: “Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Đây chính là sự khác nhau căn bản giữa chế độ xã hội dân chủ so với chế độ xã hội quân chủ trước đây. Từ chế độ ra “sắc lệnh” đến chế độ ra các “đạo luật” là bước tiến dài của lịch sử, thể hiện sự phát triển của trình độ dân chủ. Việc ra các đạo luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhân dân; trong khi đó, tính dân chủ, công bằng và khách quan của mỗi sắc lệnh hoàn toàn phụ thuộc vào “tâm, tầm, tài” của người đứng đầu nhà nước. Mặt khác, thâm ý sâu xa trong “Yêu sách của nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đòi hỏi xác lập “các đạo luật” cũng yêu cầu phải có Hiến pháp - sản phẩm của nhà nước độc lập. Nói cách khác, đây thực chất là yêu sách đòi quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Bên cạnh đó, khi chuyển thể “Yêu sách thứ 7” sang luận điểm “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” trong bài “Việt Nam yêu cầu ca”, Nguyễn Ái Quốc đặt ra yêu cầu mọi người dân phải tuyệt đối tự giác “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật”. “Thần linh pháp quyền” được hiểu là một nền “pháp quyền tự thân”, với Hiến pháp và hệ thống pháp luật đầy đủ, thể hiện cho ý chí, nguyện vọng của mọi người dân; mọi người dân đều tin tưởng pháp luật tuyệt đối.

Trong thực tế, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với những nội dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, nhân văn chưa từng có trong lịch sử các dân tộc thuộc địa. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 tuyên bố: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Trên cơ sở Hiến pháp dân chủ, hệ thống pháp luật dân chủ từng bước được xây dựng. Theo Người, pháp luật trong chế độ dân chủ mới là nền pháp luật dân chủ, do Nhân dân xây dựng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân và mục đích duy nhất là mưu cầu tự do, hạnh phúc cho mọi người dân. Người chỉ rõ: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệquyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”. Đồng thời, pháp luật phải thể hiện rõ tính nhân văn nhằm khơi dậy ý thức tự giác của mọi người dân và tạo điều kiện cho những người dân “lầm đường lạc lối” có cơ hội sửa chữa khuyết điểm, sai lầm nếu thành thật “cải tà quy chính”. Đó là việc xây dựng một nền pháp luật thực sự thấm đẫm đạo đức, tình người với lòng nhân ái cao cả, mà không phải theo quan niệm “pháp trị” hay theo thuyết pháp luật độc tôn. Phát biểu tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức…”.

Để thực hiện yêu cầu trên, vấn đề cốt lõi nhất là phải dựa vào dân, mọi chính sách, pháp luật phải được “chưng cất” từ ý dân. Người chỉ rõ: Mọi quy trình xây dựng chính sách, pháp luật đều phải quán triệt nguyên tắc “từ dưới nhoi lên”. Bởi vì, xét đến cùng, Nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng chịu sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật. Trước khi ban hành một chính sách, pháp luật, Hồ Chí Minh luôn căn dặn “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”, bởi “ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”. Người kịch liệt phê bình những cán bộ “thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng”. Tuy nhiên, Người cũng căn dặn: Tin dân, học hỏi dân nhưng “chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng” một cách dễ dãi, hời hợt, mà phải có bản lĩnh, sự quyết đoán để phân tích rõ đúng - sai, tốt - xấu; từ đó giác ngộ, vận động, cảm hóa quần chúng nhân dân, nhất là bộ phận còn có nhận thức sai lệch, để họ sống và làm việc theo đúng Hiến pháp và pháp luật; cán bộ thực thi pháp luật phải ra sức hướng dẫn quần chúng hành động một cách “tự giác”, có tổ chức, có kỷ luật theo đúng chính sách, pháp luật.

Hai là, thi hành Hiến pháp, pháp luật tự giác, nghiêm minh, “không cho phép ai đứng trên hoặc đứng ngoài Hiến pháp, pháp luật”.

Việc tuân thủ pháp luật, theo Hồ Chí Minh, phải trở thành hành động tự giác, thành nhu cầu bên trong và là chuẩn mực đạo đức cao nhất của mọi công dân trong xã hội dân chủ. Đã là công dân, dù thuộc giai tầng xã hội nào, địa vị xã hội ra sao cũng đều phải thượng tôn pháp luật. Người khẳng định: “... đạo đức công dân, đó là: Tuân theo pháp luật nhà nước”. Người đòi hỏi tất cả mọi tổ chức và công dân phải chấp hành nghiêm pháp luật, không ai được phép đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật. Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ “bất liêm”, bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, tuyệt nhiên không có vùng cấm trong thực thi pháp luật. Người khẳng định: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính, nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”. Xuất phát từ tính nghiêm minh, nghiêm khắc của pháp luật, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Người đã ký “Quốc lệnh” quy định “10 điểm thưởng và 10 điểm phạt”: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì Nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vậy Chính phủ ra Quốc lệnh rõ ràng gồm có 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh, những việc nên làm”. Trong Quốc lệnh này, 10 điểm thưởng được áp dụng cho những hành động đạo đức công dân cao cả vì nước, vì dân và 10 điểm phạt được áp dụng cho những hành vi phản quốc, phản bội sự nghiệp cách mạng, tàn ác với dân.

Trong tuân thủ pháp luật, Người đặc biệt lưu ý mọi tổ chức và cá nhân cần nghiêm túc khắc phục tư tưởng, hành vi sai trái như tự tiện, chấp hành kỷ luật, pháp luật không nghiêm. Người nói: “Tự động không phải là tự tiện. Nhiều bạn lại hiểu nghĩa tự động sai lạc hẳn đi, không coi kỷ luật chính trị vào đâu, muốn làm gì là cứ tự ý làm bừa đi, chẳng bàn hỏi thảo luận với ai, không theo pháp luật Chính phủ ban hành, không dựa vào ý nguyện dân chúng”. Những hành động đó không những không đem lại kết quả, mà nguy hại hơn nó còn làm mất niềm tin của quần chúng vào Nhà nước và sự tôn nghiêm của Hiến pháp, pháp luật.

Việc tuân thủ chính sách, pháp luật là nguyên tắc bất biến, là nét đẹp văn hoá của mọi công dân trong NNPQ xã hội chủ nghĩa. Bản thân Hồ Chí Minh là “công dân kiểu mẫu” trong việc tuân thủ và vận động Nhân dân thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Không một chính sách, pháp luật quan trọng nào của Nhà nước mà Hồ Chí Minh không trực tiếp viết bài, nói chuyện hoặc bằng sự gương mẫu chấp hành của mình để cổ vũ, động viên mọi công dân học tập, làm theo. Người đã để lại hình ảnh mẫu mực về chấp hành pháp luật: Được đồng bào tín nhiệm đề nghị không phải ra ứng cử đại biểu Quốc hội, mà Nhân dân trực tiếp suy tôn Người vào Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời trung thực: “Tôi là một công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa”.

Ba là, cán bộ phụ trách thi hành pháp luật phải tuân thủ nguyên tắc “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”.

Sự tôn nghiêm, công bằng, khách quan của hệ thống pháp luật có được thực thi triệt để, nghiêm túc hay không phụ thuộc phần lớn vào “tâm, tầm, tài” của “cán bộ phụ trách thi hành pháp luật”. Do đó, để nâng cao ý thức thượng tôn Hiến pháp, pháp luật trong xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đề cao nguyên tắc “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” của cán bộ phụ trách thi hành pháp luật. Trong “Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc” (02/1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho Nhân dân noi theo”. Cán bộ phụ trách thi hành pháp luật bao gồm nhiều tổ chức, lực lượng trong bộ máy nhà nước (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân…); trong đó, Người thường nhắc đến vai trò của cán bộ tư pháp: Là người phụ trách thi hành pháp luật, nên lẽ dĩ nhiên, phải hết lòng vì cái chung, vì Nhân dân mà bảo vệ pháp luật, bảo đảm sự công bằng, công minh trong việc áp dụng pháp luật với tinh thần cao nhất. “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” là những tiêu chuẩn làm nên bản chất mới của cán bộ tư pháp, nền tư pháp mới và rộng hơn nữa là bộ máy nhà nước.

Người nhấn mạnh nguyên tắc bảo đảm tính công bằng, liêm khiết, trong sạch trong thi hành pháp luật. Muốn vậy, Người khuyên cán bộ thực thi pháp luật phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân, bởi vì giúp dân, học dân mới giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thực thi pháp luật là tăng cường tính răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa. Theo Bác, xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn. Với những quan điểm đó, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta.

Bốn là, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật.

Trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Người lên án tình trạng thi hành kỷ luật không nghiêm: “Ở các địa phương, những khuyết điểm to nhất là: a) Khuynh hướng chật hẹp và bao biện…; b) Lạm dụng hình phạt…; c) Kỷ luật không đủ nghiêm…”. Theo Người, nếu những hành vi vi phạm pháp luật không bị trừng phạt, thì sự buông lỏng sẽ là tiền đề gây ra những hệ luỵ khôn lường, nhất là tình trạng “lạm pháp” trong thực thi pháp luật. Đặc biệt, nguy hại hơn là nó gây nên tâm lý coi thường pháp luật, gây tổn hại đến pháp chế và trật tự pháp luật. Trong “Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ” (01/3/1947), Hồ Chí Minh viết: “Nhiều nơi các đồng chí phạm lỗi, nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ tầng công tác nơi này, đi nơi khác lại ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công tác theo hình thức, nhưng vẫn ở cấp bộ cũ làm việc”.

2. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn hơn 35 năm đổi mới đất nước và xây dựng, hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, từ quan điểm đến mục tiêu trong Nghị quyết này đặt ra vấn đề bảo đảm “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật” và phấn đấu đến năm 2030, ý thức thượng tôn Hiến pháp, pháp luật phải trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Nhằm vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay, tác giả cho rằng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho toàn dân.

Nâng cao nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và xã hội là một quá trình khó khăn, lâu dài. Đảng ta chỉ rõ, cần “đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, yêu cầu cơ bản trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là làm cho toàn dân nhận thức rõ trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, vi phạm Hiến pháp và pháp luật, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Việc nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong bộ máy nhà nước và xã hội phải luôn được bắt đầu từ các tổ chức Đảng, Nhà nước và lan tỏa trong các tổ chức khác, cá nhân trong xã hội. Các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải luôn ý thức được tinh thần pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của mình và của toàn xã hội. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh: “Đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân” nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, lâu dài trong nhận thức và hành vi chấp hành Hiến pháp, pháp luật của các tầng lớp nhân dân.

Hai là, cần xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ bản chất dân chủ của NNPQ xã hội chủ nghĩa, sát thực tiễn và hiện đại.

Để thực hiện nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, Đảng ta xác định nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm là: “Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo”. Theo đó, phải bảo đảm các quan hệ xã hội đều có pháp luật điều chỉnh tương ứng; tránh tình trạng bỏ ngỏ và khoảng trống pháp lý làm nảy sinh tiêu cực và vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, xuất phát từ bản chất của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, hệ thống pháp luật phải thực sự dân chủ, công bằng, nhân đạo. Các quy định của pháp luật muốn đi vào đời sống và điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội thì trước tiên phải thực sự “dân chủ”, tức là phù hợp với lợi ích của Nhân dân và phải thực hiện xin ý kiến đóng góp rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân về nội dung chủ trương, chính sách quan trọng dự kiến ban hành. “Công bằng, nhân đạo” là một yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật, bởi nó góp phần bảo đảm cao nhất quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo đảm việc tuân theo pháp luật “không có ngoại lệ”, nghĩa là không ai đứng bên ngoài pháp luật và tất cả các cá nhân, tổ chức đều bình đẳng trước pháp luật. Đồng thời, cần kiểm soát quyền lực nhà nước, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao uy tín, hiệu quả quản lý nhà nước.

Ba là, cần nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.

Đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của hoạt động thực thi pháp luật. Do đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng; quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ Nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ “dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”.

Bốn là, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật.

Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật để kịp thời phát hiện và khắc phục những hạn chế, yếu kém và xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp với mục đích đặt ra hoặc lợi dụng pháp luật để trục lợi cá nhân; phối kết hợp chặt chẽ giữa sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Đảng với Thanh tra nhà nước, sự theo dõi, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi thi hành pháp luật; kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cho các cơ quan làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi thi hành pháp luật; tăng cường xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm trên các lĩnh vực; mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật, không có vùng cấm, không có trường hợp ngoại lệ, thể hiện tính chất nghiêm minh của pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quan điểm đúng đắn, hợp lòng dân, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, là sự cụ thể hoá mong ước cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một mô hình nhà nước do dân là chủ và dân làm chủ. Tuy nhiên, Hiến pháp, pháp luật dù tiến bộ, dân chủ đến đâu cũng chỉ là công cụ thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Yếu tố cốt lõi để có được quyền dân chủ thực sự là phát huy tính tự giác của mọi công dân trong thực thi một nền pháp luật “tự thân”, pháp luật của lương tâm, của đạo đức, nghĩa là tự mình tự giác “thượng tôn Hiến pháp, pháp luật”. Đúng như chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tự mình còn bẩn thì xây dựng xã hội trong sạch thế nào được. Vì vậy phải gây một phong trào trong sạch. Muốn trong sạch thì phải gây một phong trào chống tham ô, lãng phí. Pháp luật không trị hết được. Tự mình phải gây ra cái pháp luật để trị mình”.

Nguyễn Trung Thành

Tư pháp phục hồi trong pháp luật hình sự Cộng hòa Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam

(Kiemsat.vn) - “Tư pháp phục hồi cung cấp một không gian bí mật, an toàn và tự nguyện để nói chuyện và thảo luận về những uất hận, cảm xúc và kỳ vọng của tất cả những người bị ảnh hưởng bởi hành vi phạm tội và hậu quả của nó”. Qua việc phân tích quy định của pháp luật hình sự Pháp về tư pháp phục hồi, tác giả đưa ra một số khuyến nghị có giá trị tham khảo cho Việt Nam.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang