Bàn về quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

11/08/2025 13:46

(kiemsat.vn)
Mặc dù các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại đã được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật Hình sự năm 2015, nhưng vẫn cần có các hướng dẫn cụ thể nhằm xác định chính xác nội hàm của những quy định đó theo hướng phân định rõ các tình tiết được áp dụng đối với pháp nhân thương mại và các tình tiết được áp dụng đối với người phạm tội trong pháp nhân thương mại.

1. Một số vấn đề về quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong Bộ luật Hình sự Việt Nam

Trong khoa học luật hình sự, khả năng phải chịu hình phạt của pháp nhân thương mại (PNTM) là dựa trên cơ sở lý luận: “Sự gắn bó chặt chẽ về pháp luật và đạo đức xã hội đòi hỏi là năng lực phạm tội không bị tách khỏi tính phải chịu trừng phạt”, đa số các tác giả đều đồng tình rằng: “Giữa tội phạm với chế tài hình sự và sự cần thiết áp dụng hình phạt với chủ thể của tội phạm (pháp nhân phạm tội) có mối quan hệ logic khó có thể phản bác”. Cũng giống như việc xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với cá nhân phạm tội, “chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và duy nhất đối với chính bản thân chủ thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những tổ chức, pháp nhân trong khi các thực thể này phạm tội”. Việc áp dụng hình phạt đối với PNTM phạm tội cũng phải bảo đảm các nguyên tắc của pháp luật hình sự, cũng như các mục đích của hình phạt; trong đó mục đích phòng ngừa chung được đề cao hơn cả vì “các hình phạt này buộc các tổ chức nói trên phải thiết lập những hệ thống quản lý và kiểm soát nguy cơ một cách có hiệu quả, qua đó góp phần bảo vệ môi trường và sức khoẻ của công dân”.

Để đáp ứng các yêu cầu trên, các quy định về hình phạt và căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội phải mang tính đặc thù và phù hợp với đặc điểm của PNTM - một thực thể pháp lý hoàn toàn khác với con người. Các căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội hiện được quy định tại Điều 83 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015): “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của PNTM và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với PNTM”. Trong đó, so với căn cứ quyết định hình phạt đối với cá nhân phạm tội, căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội thể hiện điểm khác biệt ở quy định về “việc chấp hành pháp luật của PNTM”. Một số quan điểm cho rằng, “việc chấp hành pháp luật của PNTM được coi như tương tự với tình tiết “nhân thân” của người phạm tội”. Theo quan điểm của tác giả, việc chấp hành pháp luật của PNTM cần được hiểu là hoạt động chấp hành mọi lĩnh vực pháp luật của đời sống xã hội (dân sự, thương mại, môi trường, đất đai…); việc chấp hành pháp luật được sử dụng làm căn cứ quyết định hình phạt có thể diễn ra trước hoặc sau khi PNTM thực hiện hành vi phạm tội (trước khi xét xử).

Điểm khác biệt thứ hai trong căn cứ quyết định hình phạt giữa PNTM và cá nhân phạm tội là: Căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM không đề cập đến các căn cứ riêng khi quyết định hình phạt tiền như đối với cá nhân tại khoản 2 Điều 50 BLHS năm 2015. Theo quan điểm của tác giả, trên thực tế có các trường hợp PNTM gặp khó khăn về tình hình tài sản ảnh hưởng đến khả năng thi hành hình phạt tiền. Trong khi đó, hình phạt tiền đang được quy định áp dụng nhiều nhất đối với PNTM phạm tội tại các điều luật cụ thể trong BLHS năm 2015. Việc thiếu vắng căn cứ này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng các hình phạt đối với PNTM trên thực tế.

Đồng thời, BLHS năm 2015 cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với PNTM. Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội hàm và các trường hợp áp dụng nên một số tình tiết vẫn cần được làm rõ như sau:

- Tình tiết đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Bản chất của tình tiết này có thể được hiểu tương tự như tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với người phạm tội tại điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

- Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ được quy định đối với người phạm tội tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

- Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án: Tình tiết giảm nhẹ này cũng tương tự như tình tiết giảm nhẹ được quy định đối với người phạm tội tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trên đều mô tả hành vi được thực hiện sau khi PNTM đã thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, một số câu hỏi đặt ra chung cho cả 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS này là: Hành vi “ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm”, “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”, “tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” là do PNTM thực hiện hay do cá nhân đại diện của PNTM thực hiện? Nếu các hành vi này do các cá nhân đại diện của PNTM thực hiện thì cần có mối quan hệ với PNTM như điều kiện chịu TNHS của PNTM theo Điều 75 BLHS năm 2015 hay không? Bởi lẽ, trên thực tế có thể có trường hợp người đại diện của PNTM có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, nhưng lại không vì lợi ích của PNTM, không có sự chỉ đạo, điều hành, chấp thuận của PNTM.

Có quan điểm cho rằng, 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS nêu trên có thể do PNTM hoặc người đại diện của PNTM thực hiện vì lợi ích của PNTM và có thể được áp dụng như một tình tiết “kép” khi quyết định hình phạt đối với cả PNTM và người phạm tội thuộc PNTM. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc truy cứu TNHS của PNTM không loại trừ TNHS của cá nhân, do đó, quá trình áp dụng các tình tiết này cần phân định rõ các hành vi được thực hiện với tư cách cá nhân hay tư cách đại diện cho PNTM. Từ đó, nếu cả PNTM và cá nhân thuộc PNTM đều bị truy cứu TNHS và đều thoả mãn các tình tiết giảm nhẹ TNHS riêng của từng chủ thể, thì việc áp dụng các tình tiết này sẽ được thực hiện riêng cho từng chủ thể.

Tương tự, một số tình tiết tăng nặng TNHS đối với PNTM phạm tội cũng cần có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng, cụ thể:

- Cấu kết với PNTM khác để phạm tội: Có quan điểm cho rằng, “tình tiết phạm tội này cũng tương tự như tình tiết phạm tội có tổ chức đối với người phạm tội nhưng đối với PNTM thì hành vi phạm tội bao giờ cũng là hành vi có tổ chức nên không cần phải quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Tác giả không đồng tình với quan điểm này, vì bản chất của vấn đề là việc xác định có hay không đồng phạm giữa các PNTM chưa có căn cứ lý luận để làm rõ. Do đó, nội hàm của tình tiết này có sự khác biệt với tình tiết “phạm tội có tổ chức” của cá nhân phạm tội. Theo đó, câu kết với PNTM khác để phạm tội cần được hiểu là hành vi của ít nhất 02 đại diện cho 02 PNTM khác nhau, đều thoả mãn điều kiện chịu TNHS của PNTM quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015. Sự câu kết này cũng không cần có tính chất “chặt chẽ” như “phạm tội có tổ chức” của cá nhân phạm tội.

- Một số tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS khác có liên quan đến hành vi phạm tội như “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”, “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội”… cũng đặt ra câu hỏi tương tự về mối quan hệ giữa những hành vi đó với điều kiện chịu TNHS của PNTM như đã phân tích ở trên.

Như vậy, mặc dù các căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM đã được quy định khá đầy đủ trong BLHS năm 2015, nhưng vẫn cần có các hướng dẫn cụ thể nhằm xác định chính xác nội hàm của những quy định đó theo hướng phân định rõ các tình tiết được áp dụng đối với PNTM và các tình tiết được áp dụng đối với người phạm tội trong PNTM.

2. Quy định về quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới

- Quy định của pháp luật Hoa Kỳ:

Trong pháp luật hình sự của Hoa Kỳ, mục đích của hình phạt và quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội được xác định gồm: (1) Có giá trị ngăn ngừa cá nhân là người đại diện của pháp nhân có hành vi phạm tội mới; (2) Bảo đảm pháp nhân duy trì cơ chế nội bộ để ngăn ngừa, phát hiện và báo cáo về hành vi phạm tội. Điều này có nghĩa là bên cạnh mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, hình phạt đối với pháp nhân phạm tội còn cần thiết lập và bảo đảm cơ chế kiểm soát hành vi phạm tội do người đại diện của pháp nhân thực hiện. Một số quy định về hình phạt đối với pháp nhân trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ đã thể hiện rõ điều này.

Hình phạt quản chế (probation) chính thức được quy định trong luật của Hoa Kỳ vào năm 1991 khi Ủy ban Tuyên án Hoa Kỳ (U.S Sentencing Comission) bổ sung Chương 8 về xử phạt các tổ chức bị kết án cấp liên bang. Trong đó, Phần D quy định cụ thể về các trường hợp PNTM phạm tội bị áp dụng hình phạt quản chế, điều kiện và thời hạn quản chế. Quản chế được áp dụng đối với pháp nhân phạm tội trong trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm các tổ chức này thực hiện nghiêm chỉnh các hình phạt khác. Đồng thời, hình phạt này là cần thiết để giám sát việc trả tiền bồi thường, thi hành lệnh khắc phục nguyên nhân vi phạm hoặc bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ công ích của pháp nhân. Quản chế cũng giúp pháp nhân tự giám sát chính mình nhằm ngăn ngừa các hành vi phạm tội có thể xảy ra trong tương lai.

Bên cạnh đó, chương trình tuân thủ và ứng xử đạo đức hiệu quả (Effective Compliance and Ethics Program) cũng là một giải pháp giúp pháp nhân hoàn thiện hệ thống nội bộ theo hướng ứng xử đạo đức như là những “công dân tốt”. Pháp nhân thương mại phạm tội có trách nhiệm tạo ra một môi trường hoạt động nhằm giảm thiểu những hành vi vi phạm pháp luật. Nếu pháp nhân có những nỗ lực phù hợp để ngăn chặn những hành vi này, thì có thể được giảm bớt đáng kể các hình phạt có khả năng bị áp dụng đối với mình.

Hoa Kỳ cũng quy định phạt tiền là một trong những hình phạt đối với PNTM phạm tội tương tự pháp luật hình sự Việt Nam. Dựa vào tính nghiêm trọng và mức độ lỗi của chủ thể phạm tội mà quốc gia này quy định tính chất và mức độ của hình phạt tiền. Theo đó, hình phạt tiền được xác định bởi công thức: Chuyển một đô la cho từng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội (được xác định trên cơ sở thiệt hại vật chất hoặc khoản thu lợi vật chất bất chính do hành vi phạm tội gây ra) và nhân với hệ số xác định mức độ lỗi của pháp nhân. Hệ số xác định mức độ lỗi của pháp nhân lại được căn cứ vào 06 yếu tố. Mặt khác, hình phạt tiền phải được xác định dựa trên mức độ thiệt hại cũng như quy mô của công ty nhằm bảo đảm sự công bằng và đạt được mục đích ngăn ngừa hành vi phạm tội. Mức phạt tiền tối đa cũng được căn cứ vào từng loại tội phạm cụ thể và không vượt quá 500.000 USD. Ngoài ra, pháp luật hình sự Hoa Kỳ cũng quy định một số hình phạt khác có tính chất bổ trợ như: Khắc phục hậu quả, lệnh cưỡng chế, dịch vụ công ích..., thể hiện rõ nét mục đích phòng ngừa chung của hình phạt đối với PNTM.

- Quy định của một số quốc gia châu Âu:

Luật hình sự của Pháp, Bỉ và Hà Lan quy định một hệ thống hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội. Điều 7bis mới của BLHS Bỉ quy định hệ thống hình phạt áp dụng với pháp nhân phạm tội, bao gồm: Phạt tiền, tịch thu tài sản, giải thể, cấm tiến hành những hoạt động nhất định, đóng cửa pháp nhân, niêm yết bản án, quyết định của Tòa án hoặc thông báo trên phương tiện nghe nhìn. Bộ luật Hình sự Bỉ quy định hình phạt phải tương xứng và phù hợp với hành vi phạm tội, đồng thời phải tính đến những tác dụng phụ không mong muốn của hình phạt. Khi áp dụng hình phạt đối với PNTM, Thẩm phán phải xem xét, cân nhắc những tác động đối với nhân viên của pháp nhân.

Theo mục đích của BLHS Hà Lan, thể nhân và pháp nhân đều có địa vị ngang nhau. Sự bình đẳng này được chấp nhận vì nó buộc một công ty phải chịu trách nhiệm về hành vi có thể được quy cho mình, như thể đó là một con người. Điều 51 BLHS Hà Lan quy định, về nguyên tắc, một pháp nhân có thể phạm bất kỳ loại tội phạm nào. Do đó, tất cả các tội phạm trong BLHS nước này - về mặt lý thuyết - có thể làm phát sinh trách nhiệm pháp lý của công ty. Tuy nhiên, các công ty thường bị truy tố về các loại tội như: Giả mạo tài liệu (Điều 225), tham ô (Điều 321), hối lộ (Điều 328ter) và rửa tiền (Điều 420bis). Bộ luật Hình sự của Hà Lan quy định rất nhiều hình phạt có thể áp dụng đối với pháp nhân phạm tội như: Phạt tiền; giải thể pháp nhân; tịch biên; niêm yết quyết định đã được Tòa án tuyên hoặc thông báo quyết định đó trên các phương tiện nghe nhìn…. Đối với hình phạt tiền, Điều 23(7) BLHS Hà Lan quy định có thể áp dụng mức phạt tiền cao hơn nếu mức phạt tối đa không thể hiện sự thỏa đáng và phù hợp với hành vi phạm tội mà pháp nhân đã thực hiện. Nếu áp dụng mức phạt tiền loại thứ sáu (EUR 820,000) nhưng chưa đủ, thì pháp nhân có thể bị phạt tới 10% doanh thu hàng năm trong năm tài chính trước đó. So với BLHS Hà Lan, Đạo luật xử phạt kinh tế (Economic Offenses Act – EOA) của nước này quy định 03 khả năng xử phạt bổ sung đối với PNTM phạm tội là: (i) Đóng cửa toàn bộ hoặc một phần công ty; (ii) Lệnh hành chính; (iii) Áp đặt nghĩa vụ đối với công ty trong việc sửa chữa thiệt hại đã gây ra và khôi phục tình hình trong phạm vi có thể, như thể hành vi phạm tội không xảy ra.

Điều 131-37 BLHS Pháp quy định những hình phạt đại hình và tiểu hình pháp nhân phải chịu thường là hình phạt tiền. Tiền phạt đối với PNTM phạm tội dao động từ tối thiểu là 190 euro (tức là gấp 05 lần số tiền phạt mà cá nhân phải chịu đối với mức phạt hình sự thấp nhất) đến vài triệu euro. Đối với các hành vi phạm tội mà pháp luật không quy định mức phạt đối với cá nhân, thì mức phạt đối với pháp nhân được quy định là 01 triệu euro (theo Điều 131-38 BLHS Pháp). Tòa án có thể tuyên phạt pháp nhân đến mức tối đa theo quy định của pháp luật hoặc gấp đôi số tiền thu được từ việc thực hiện tội phạm đối với một số tội phạm nhất định. Trong một số trường hợp nhất định, Tòa án sẽ tuyên kèm theo biện pháp hạn chế và yêu cầu bồi thường, cụ thể là: Những hình phạt được liệt kê trong Điều 131-39, bao gồm phạt giải thể pháp nhân (pháp nhân được thành lập nhằm mục đích phạm tội hoặc bị chuyển hướng khỏi mục tiêu họat động để phạm tội); cấm pháp nhân tiến hành trực tiếp hoặc gián tiếp một hoặc nhiều hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội; chịu sự giám sát tư pháp trong thời hạn tối đa là 05 năm (không áp dụng đối với các cơ quan công quyền và các cơ quan cụ thể khác như công đoàn và đảng phái chính trị); đóng cửa cơ sở hoặc đơn vị được pháp nhân sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; cấm huy động vốn; cấm phát hành séc hoặc sử dụng thẻ thanh toán trong thời hạn tối đa là 05 năm; cấm mua sắm công; cấm chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch chứng khoán; cấm sở hữu động vật; cấm nhận bất kỳ viện trợ công hoặc hỗ trợ tài chính nào từ bất kỳ cơ quan công hoặc tư nhân nào vì mục đích công; tịch thu vật đã được sử dụng hoặc dành cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc do phạm tội mà có; niêm yết quyết định đã được Tòa án tuyên hoặc thông báo quyết định đó trên các phương tiện nghe nhìn. Với các hình phạt mang tính chất cấm, thời gian cấm là tối đa 05 năm hoặc vĩnh viễn, tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội do PNTM gây ra.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, cần bổ sung căn cứ quyết định hình phạt tiền đối với PNTM phạm tội. Hiện nay, Điều 83 BLHS năm 2015 (căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội) mới chỉ đưa ra căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của PNTM và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với PNTM. Tuy nhiên, tham khảo quy định của pháp luật hình sự Bỉ, để quyết định hình phạt tiền đối với PNTM phạm tội, Tòa án còn căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án của pháp nhân. Thực tế cho thấy, pháp nhân chỉ có thể thi hành hình phạt tiền khi bản thân có đủ năng lực tài chính và kinh tế. Do đó, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 83 BLHS năm 2015 như sau:

“Điều 83. Căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của PNTM phạm tội”.

Thứ hai, cần ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS làm căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội. Mọi hành vi của cá nhân trong PNTM có liên quan đến tội phạm của PNTM (kể cả hành vi phạm tội hay hành vi được thực hiện sau khi phạm tội) đều phải có mối quan hệ mật thiết với PNTM, thì mới có cơ sở để xác định TNHS đối với PNTM. Do đó, cần có các văn bản hướng dẫn áp dụng theo hướng: Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS cũng cần thể hiện rõ mối quan hệ giữa hành vi của cá nhân với PNTM. Cách hướng dẫn này là phù hợp để xác định đúng loại, mức hình phạt áp dụng với PNTM phạm tội.

Ngoài ra, tình tiết “câu kết với PNTM khác để phạm tội” cũng cần được hướng dẫn thống nhất theo hướng: Trường hợp có ít nhất 02 đại diện cho 02 PNTM khác nhau cùng thực hiện hành vi phạm tội; hành vi phạm tội của 02 cá nhân này thỏa mãn các dấu hiệu của đồng phạm và đồng thời thoả mãn các điều kiện chịu TNHS của PNTM tại Điều 75 BLHS năm 2015.

Thứ ba, cần nghiên cứu quy định về hình phạt quản chế, chương trình tuân thủ và ứng xử đạo đức hiệu quả trong hệ thống hình phạt của Hoa Kỳ để xây dựng thêm các biện pháp hình sự phù hợp đối với PNTM phạm tội tại Việt Nam. Đây là 02 hình phạt giúp pháp nhân cải tổ lại văn hoá nội bộ, nâng cao ý thức pháp luật cho cá nhân trong pháp nhân dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tại Hoa Kỳ, hình phạt quản chế áp dụng đối với pháp nhân khá hiệu quả, bởi biện pháp này giúp pháp nhân hiểu rõ nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát hiệu quả nguy cơ tái phạm. Đồng thời, khi áp dụng chương trình tuân thủ và ứng xử đạo đức hiệu quả, PNTM phạm tội tại Hoa Kỳ cũng phải tự thực hiện công tác soát xét, nhằm ngăn ngừa và phát hiện tội phạm, cũng như thiết lập một nền tảng văn hoá đề cao sự tuân thủ pháp luật và ứng xử đạo đức. Về lý thuyết, 02 hình phạt này rất hữu ích trong công tác phòng ngừa tội phạm do PNTM thực hiện. Hiện nay, BLHS năm 2015 chưa quy định các biện pháp nhằm đảm bảo kiểm soát nguy cơ tái phạm của PNTM hay mang tính chất “phòng” thay vì “chống” các PNTM phạm tội. Do đó, đây là những biện pháp hợp lý cần được nghiên cứu, áp dụng.

Thứ tư, cần bổ sung và tăng cường áp dụng các chế tài hình sự đối với PNTM trong việc khắc phục và ngăn ngừa hậu quả của tội phạm trong trường hợp như nguồn tài sản của pháp nhân không đủ để PNTM vừa trả tiền phạt, vừa chi trả cho việc khắc phục hậu quả. Ưu tiên cho việc khắc phục hậu quả trước, sau đó mới đến thi hành các hình phạt khác, trong đó có hình phạt tiền, cũng phù hợp với việc đề cao mục đích phòng ngừa riêng như đã phân tích ở trên. Theo đó, cần ưu tiên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS liên quan đến việc khắc phục và ngăn ngừa hậu quả của tội phạm khi quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội.

Thứ năm, cần bổ sung hình phạt tịch thu tài sản và các căn cứ áp dụng hình phạt tịch thu tài sản như trong pháp luật Pháp, Bỉ; theo đó, có thể nghiên cứu về hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản của pháp nhân, hoặc tịch thu một phần tài sản, bao gồm tài sản đã được sử dụng cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc do phạm tội mà có như quy định của BLHS Pháp. Điều này góp phần ngăn ngừa pháp nhân có thể tiếp tục sử dụng tài sản đó vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Hình phạt tịch thu tài sản có thể được quy định là hình phạt bổ sung, hỗ trợ cho các hình phạt chính đối với PNTM phạm tội nhằm đạt mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.

Hoàng Hải Yến - Hà Ngô Vi Hương

Hoàn thiện pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

(Kiemsat.vn) - Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập; từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện đồng bộ thể chế về xác minh tài sản, thu nhập ở Việt Nam hiện nay.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang