Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết vụ việc dân sự
(kiemsat.vn) Đối với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cho thấy những điểm mới tiến bộ và gắn với những đặc thù riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự khi giải quyết tranh chấp dân sự là thực sự cần thiết.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại
Hướng dẫn công tác quản lý, kiểm tra và báo cáo đánh giá việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự
Kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã ghi nhận việc áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp không có điều luật để áp dụng. Trong đó, đối với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cho thấy những điểm mới tiến bộ và gắn với những đặc thù riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự khi giải quyết tranh chấp dân sự là thực sự cần thiết.
1. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết vụ việc dân sự
1.1. Áp dụng kết hợp nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án đã áp dụng kết hợp nhiều nguyên tắc cơ bản để giải quyết vụ việc dân sự.
Ví dụ: Ngày 21/7/2010, bà S ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông M và bà U. Tuy nhiên, hợp đồng (03 trang) không được các đương sự ký từng trang, bà S không biết chữ nhưng không có người làm chứng, ông X (người làm chứng) không ký xác nhận vào hợp đồng, các bên chưa thực hiện giao tiền. Mặt khác, Phiếu khám sức khỏe tâm thần số 5 ngày 21/10/2010 của Bệnh viện G kết luận: Bà Nguyễn Thị S sinh năm 1956, mù chữ, được chẩn đoán trong giai đoạn trầm cảm, năng lực nhận thức và điều khiển hành vi hạn chế, cần người giám hộ. Tòa án xác định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S và ông M, bà U xác lập ngày 21/7/2010 không đảm bảo đúng ý chí tự nguyện, tự định đoạt về tài sản của bà S; không đúng quy định tại các điều 9, 36 Luật công chứng năm 2006 và vi phạm những nguyên tắc cơ bản tại các điều 4, 5, 6, 7 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005; nên bị vô hiệu kể từ thời điểm xác lập”.
Trong vụ việc này, Tòa án đã áp dụng kết hợp nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: Nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc thiện chí, trung thực và nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự theo các điều 4, 5, 6, 7 BLDS năm 2005 (BLDS có hiệu lực tại thời điểm xác lập hợp đồng giữa hai bên), để xác định bà S xác lập hợp đồng không đảm bảo đúng ý chí tự nguyện, tự định đoạt về tài sản và hợp đồng bị vô hiệu.
Trước đây, BLDS năm 2005 không quy định về vai trò và việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong trường hợp không có điều luật để giải quyết vụ việc dân sự. Hiện nay, theo Điều 6 BLDS năm 2015 thì: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. Theo đó, BLDS năm 2015 không đề cập về việc được áp dụng đồng thời tất cả các nguyên tắc cơ bản hay không; tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng kết hợp các nguyên tắc cơ bản để giải quyết vụ việc tranh chấp nếu có yếu tố liên quan là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của các bên.
1.2. Áp dụng kết hợp nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng
Theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và Điều 6 BLDS năm 2015, nguyên tắc cơ bản, án lệ, lẽ công bằng chỉ được áp dụng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán và tương tự pháp luật. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và BLDS năm 2015 không xác định thứ tự ưu tiên áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự. Theo đó, khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật thì Tòa án có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều căn cứ trên để giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, nguyên tắc cơ bản có thể được áp dụng đồng thời với án lệ hoặc lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự. Thực tế cũng cho thấy, Tòa án đã áp dụng kết hợp nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự theo Điều 3 BLDS năm 2015 và lẽ công bằng.
Ví dụ: Anh Đinh Hồng V và chị Nguyễn Thị Thanh H kết hôn năm 2009, có 02 con chung là Đinh Thị Hồng G, sinh ngày 01/3/2010 và Đinh Tùng K, sinh ngày 15/12/2015. Sau khi kết hôn, anh V làm nghề buôn bán lâm sản và lái xe, chị H ở nhà nuôi con, không nghề nghiệp cho đến khi hai người ly hôn. Do chị H không chung thuỷ nên cháu K không phải là con anh V. Do không biết cháu K không cùng huyết thống với anh V, nên anh V đã nuôi cháu K từ khi sinh ra (tháng 12/2015) đến tháng 3/2020 là 04 năm 03 tháng (51 tháng). Vì vậy, anh V khởi kiện đòi bồi thường tiền công chăm sóc là 2.000.000 đồng/tháng. Tòa án nhận định: Ngoài căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015, cần áp dụng quy định chung theo Điều 3 BLDS năm 2015 và lẽ công bằng theo Điều 6 BLDS năm 2015, để buộc chị H bồi thường. Anh V nuôi dưỡng, chăm sóc cháu K để được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già, nhưng mục đích đó đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và lẽ công bằng”.
Trong vụ việc này, hướng xử lý của Tòa án cho thấy sự thuyết phục khi viện dẫn Điều 3 BLDS năm 2015 về nguyên tắc cơ bản của pháp luật và lẽ công bằng để bảo vệ quyền lợi cho anh V, vì quan hệ tranh chấp này chưa có luật điều chỉnh. Tuy nhiên, theo Điều 3 BLDS năm 2015, có 05 nguyên tắc cơ bản nhưng Tòa án không chỉ rõ việc áp dụng cụ thể nguyên tắc cơ bản nào hay áp dụng đồng thời cả 05 nguyên tắc cơ bản này. Đây được xem là điểm chưa rõ ràng trong thực tiễn xét xử khi Tòa án áp dụng nguyên tắc cơ bản để giải quyết vụ việc dân sự.
Ngoài ra, về nội hàm của lẽ công bằng theo khái niệm tại khoản 3 Điều 45 BLTTDS năm 2015: “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”. Theo đó, lẽ công bằng được xác định trên cơ sở “không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự”, tác giả cho rằng, nội dung này khá tương đồng với nguyên tắc bình đẳng tại khoản 1 Điều 3 BLDS năm 2015. Do đó, trong một số vụ việc, Tòa án áp dụng lẽ công bằng cũng phản ánh tư tưởng của nguyên tắc bình đẳng.
1.3. Áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Thứ nhất, áp dụng nguyên tắc bình đẳng:
Thực tế, nguyên tắc bình đẳng đã được cụ thể hóa trong nhiều quy định của BLDS năm 2015. Đối với một vấn đề chưa được văn bản pháp luật quy định rõ, Tòa án có thể khai thác tinh thần của nguyên tắc bình đẳng để giải quyết. Tinh thần của nguyên tắc bình đẳng cũng được áp dụng khá phổ biến trong các vụ việc chia thừa kế di sản, để xác định di sản thừa kế cho các thừa kế. Trong trường hợp chia thừa kế theo pháp luật, BLDS năm 2015 chỉ quy định về việc “những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau” (khoản 2 Điều 651) hoặc “có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia” (khoản 2 Điều 660), mà không quy định cụ thể phân chia như thế nào. Do vậy, nguyên tắc bình đẳng đã được Tòa án áp dụng một cách linh hoạt để đảm bảo quyền lợi cho những người thừa kế.
Ví dụ: Hội đồng xét xử nhận định “cần chia đều diện tích đất cho các đồng thừa kế, do có nhiều loại đất, nên trường hợp người được hưởng phần đất có trị giá nhiều hơn phải có nghĩa vụ trả trị giá chênh lệch cho người hưởng phần có trị giá ít hơn theo kết quả định giá”.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận:
Nguyên tắc tự do cam kết, thoả thuận được hiểu là các chủ thể được tự do xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự và chỉ có 02 giới hạn là “không vi phạm điều cấm” và “không trái đạo đức xã hội”. Vì vậy, “cam kết, thỏa thuận hợp pháp sẽ có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng”. Tư tưởng của nguyên tắc này được Tòa án áp dụng khá phổ biến trong thực tiễn xét xử hiện nay, có thể kể đến một số vụ việc như sau:
Ví dụ 1: Trong hợp đồng đặt cọc, các bên có thoả thuận về việc nộp tiền lãi đối với tiền đặt cọc khi xử lý phạt cọc, mặc dù BLDS năm 2015 không có quy định, nhưng Tòa án đã xác định: “Cần xem xét về vấn đề tiền lãi đối với số tiền đặt cọc 380.000.000 đồng và số tiền 324.490.000 đồng mà ông M đã nộp cho Công ty P theo ý kiến của ông N, bà A trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm. Việc ông N, bà A đồng ý trả lãi cho ông M là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và có lợi cho đương sự nên cần được ghi nhận”. Theo đó, mặc dù Tòa án không viện dẫn cơ sở pháp lý tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015, nhưng nhận định của Tòa án đã cho thấy sự tôn trọng quyền tự do thoả thuận, cam kết của các đương sự.
Ví dụ 2: Trong vụ tranh chấp chia thừa kế, Tòa án nhận định: “Cụ A, bà B, bà C, bà D, bà E, người thừa kế của bà G (ông Nguyễn Hữu H, chị Nguyễn Mai I, chị Nguyễn Thị Tường K) tự nguyện nhường kỷ phần thừa kế của mình cho ông T, không yêu cầu ông T phải thanh toán giá trị. Sự tự nguyện của các đồng thừa kế không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên được ghi nhận”. Có thể thấy, Tòa án đã áp dụng tư tưởng của nguyên tắc tự do cam kết, thoả thuận để tôn trọng sự định đoạt của các đồng thừa kế khi nhường phần thừa kế của mình cho ông T. Theo Điều 620 BLDS năm 2015: “Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”. Đối với vụ việc trên, pháp luật dân sự không quy định về việc các đồng thừa kế không muốn nhận phần thừa kế của mình và nhường lại cho một người thừa kế, việc thoả thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, nên hướng xử lý của Tòa án là thuyết phục.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy, phần lớn Tòa án không viện dẫn cơ sở pháp lý tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015, nhưng tư tưởng của nguyên tắc tự do cam kết, thoả thuận được áp dụng khá nhiều để công nhận những thoả thuận của các đương sự khi luật không có quy định. Điều này cho thấy nguyên tắc cơ bản là công cụ định hướng nội dung quy phạm điều chỉnh, việc áp dụng nguyên tắc cơ bản đòi hỏi Thẩm phán phải có sự am hiểu pháp luật và kỹ năng áp dụng nguyên tắc cơ bản để đảm bảo quyền lợi của đương sự, giải quyết triệt để các tranh chấp.
Thứ ba, áp dụng nguyên tắc thiện chí:
Nguyên tắc thiện chí được đánh giá là chứa đựng những chỉ dẫn pháp lý dưới dạng chuẩn mực cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự và cũng là định hướng giải quyết tranh chấp cho cơ quan xét xử; quan trọng hơn, nguyên tắc này còn là nền tảng cho các quy phạm pháp luật thông thường và là cơ sở để biện giải cho các quy phạm pháp luật đó. Ngoài ra, nguyên tắc thiện chí được đánh giá là vừa có đặc điểm của quy phạm đạo đức, vừa có đặc điểm của quy phạm pháp luật; do đó, nó không dễ hiểu như các quy phạm pháp luật cụ thể. Theo khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015, việc áp dụng nguyên tắc thiện chí không có tiêu chí định lượng cụ thể. Nguyên tắc này được ghi nhận theo hướng khái quát, mà không có thêm bất kỳ hướng dẫn định lượng để xác định có sự vi phạm nguyên tắc cơ bản hay không. Thực tiễn cho thấy, việc xác định một bên có hành vi vi phạm nguyên tắc thiện chí phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và quyết định của cơ quan xét xử.
Ví dụ: Ông P và ông H ký hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thời gian dự kiến công chứng hợp đồng là ngày 24/12/2015). Thực tế, ông P đã giao tiền đặt cọc cho ông H. Tuy nhiên, các bên không tiến hành được việc ký hợp đồng công chứng ngày 24/12/2015. Tòa án xác định “lỗi dẫn đến việc không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là của ông P, do đó, ông P phải chịu mất tiền đặt cọc theo Điều 3 Hợp đồng đặt cọc và khoản 2 Điều 358 BLDS năm 2005”. Trong vụ việc này, Tòa án dựa trên chuỗi sự việc hai bên xác nhận với chính lời trình bày và chứng cứ, tài liệu để xem xét về yếu tố thiện chí của các bên khi tham gia vào giao dịch. Cụ thể, Tòa án cho rằng, ông P không trình bày lý do dẫn đến việc không thực hiện hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/12/2015, không xuất trình được tài liệu chứng minh sự đồng thuận của ông H về việc ký kết hợp đồng ở một thời gian khác. Ngoài ra, “ông P là người mua, người giao tiền cọc cho ông H nên phải có trách nhiệm bảo vệ số tiền đã giao bằng việc chứng minh sự thiện chí ký kết hợp đồng tại công chứng”. Trước đó, bản án sơ thẩm cho rằng, ông H đã chuyển nhượng lô đất vào ngày 09/11/2016 mà không thông báo cho ông P là không trung thực và thiện chí. Tuy nhiên, Tòa án phúc thẩm lại nhận định: Việc bị đơn chuyển nhượng lô đất cho người khác diễn ra sau khi Tòa án sơ thẩm thụ lý yêu cầu khởi kiện là phù hợp với quy định của pháp luật và ông H không có nghĩa vụ phải thông báo hoặc cung cấp thông tin cho ông P; việc ông P khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc và phạt cọc đã thể hiện rõ ý chí của ông P không giữ ý định giao kết hợp đồng; chính hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 09/11/2016 thể hiện ông L đã chờ ông P ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ngày 24/12/2015 đến khi ông H nhận đơn thông báo thụ lý vụ án của Tòa án (khi ông H chắc chắn về ý chí của ông P không muốn ký kết hợp đồng thì mới giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác do cần tiền), “chính điều này đã chứng minh sự thiện chí của ông H và mong muốn giao kết hợp đồng chuyển nhượng”.
Pháp luật Việt Nam không có bất kỳ tiêu chí định lượng nào để đánh giá một bên có hành vi vi phạm nguyên tắc thiện chí hay không; không quy định chế tài hoặc biện pháp khắc phục cụ thể đối với hành vi vi phạm nguyên tắc thiện chí. Do đó, có thể dẫn đến trường hợp cùng một sự việc và cùng một Tòa án xét xử nhưng lại có nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau. Việc áp dụng nguyên tắc thiện chí phần nhiều phụ thuộc vào nhận thức và quan điểm của từng cơ quan xét xử đối với lời trình bày, chứng cứ của đương sự.
Thứ tư, áp dụng nguyên tắc tôn trọng lợi ích hợp pháp của chủ thể khác:
Qua tìm hiểu thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy, Tòa án đã áp dụng tinh thần của nguyên tắc tôn trọng lợi ích hợp pháp của chủ thể khác trong những vụ việc không có luật quy định.
Ví dụ: Di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V, nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo Luật đất đai, nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông A. Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: “Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bản án số 45/2009/DS-PT ngày 22/5/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh V (trong khi tại bản án phúc thẩm này, Hội đồng xét xử chỉ tuyên hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án) để xác định tại thời điểm cụ D lập di chúc, di sản là một phần tài sản (bất động sản tại thửa số 38, tờ bản đồ số 13) không còn là chưa chính xác. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, cần xem xét đồng thời giá trị pháp lý của hợp đồng mua bán nhà, đất giữa ông Trần Văn Y với cụ Nguyễn Thị C, tính hợp pháp của bản di chúc do cụ D, cụ C lập, cũng như văn bản công bố di chúc mới giải quyết triệt để vụ án và bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự”.
Quyền sử dụng đất do cụ C, cụ D tạo lập hợp pháp mà khi người đó còn sống, Nhà nước đã có quyết định thu hồi đất và việc thu hồi thuộc trường hợp được bồi thường, thì giá trị quyền sử dụng đất vẫn được xem là di sản thừa kế để lập di chúc. Điều này được xác định là nội dung Án lệ số 34/2020/AL và có giá trị áp dụng cho những vụ việc tương tự. Trong vụ việc trên, Tòa án đã áp dụng tinh thần của nguyên tắc tôn trọng lợi ích của chủ thể khác nhằm đảm bảo quyền để lại thừa kế của cụ C, cụ D và quyền nhận thừa kế của các đồng thừa kế, mặc dù Tòa án chưa dẫn chiếu rõ cơ sở pháp lý của nguyên tắc này.
Thứ năm, áp dụng nguyên tắc tự chịu trách nhiệm:
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án đã áp dụng nguyên tắc tự chịu trách nhiệm để người không thực hiện đúng nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện đúng nghĩa vụ trong những quan hệ dân sự không được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh.
Ví dụ: Giữa chị Nguyễn A, chị Nguyễn D và ông Vũ T, chị A xác nhận có nhận của chị D số tiền 118.000.000 đồng để thực hiện việc tách sổ cho anh Q, chị S nhưng chị A không thực hiện được, chị A cam kết trả lại số tiền trên cho chị D nhưng không trả. Tòa án xác định: “Buộc chị A có nghĩa vụ trả lại cho chị D số tiền 118.000.000 đồng”. Đây là quan hệ tranh chấp trong trường hợp chưa có điều luật giải quyết và Tòa án đã áp dụng đúng tinh thần của nguyên tắc tự chịu trách nhiệm khi không thực hiện nghĩa vụ để buộc chị L phải có trách nhiệm hoàn trả tiền cho chị D.
3. Một số nhận xét, đánh giá
Có thể thấy, Tòa án được quyền áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng trên thực tế, so với các nguồn điều chỉnh khác như tập quán, án lệ, lẽ công bằng thì rất ít số liệu thống kê hoạt động áp dụng nguyên tắc cơ bản vào giải quyết các vụ việc dân sự. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản vào giải quyết các vụ việc dân sự còn có những hạn chế như sau:
Một là, phần lớn những lập luận hay phán quyết của Hội đồng xét xử không viện dẫn cơ sở pháp lý là áp dụng nguyên tắc cơ bản cụ thể nào. Do đó, rất khó để nhận diện tính khả thi và phù hợp của từng nguyên tắc cơ bản đối với vụ việc đang tranh chấp.
Hai là, nguyên tắc cơ bản mang tính khái quát cao và không có quy định ghi nhận rõ tiêu chí, điều kiện áp dụng cho từng nguyên tắc cơ bản. Do đó, việc áp dụng nguyên tắc cơ bản thường phát sinh nhiều quan điểm trái chiều.
Ba là, việc áp dụng nguyên tắc cơ bản phần nhiều phụ thuộc vào nhận thức và quan điểm của Tòa án. Những lập luận, phán quyết của Tòa án về việc áp dụng nguyên tắc cơ bản phần lớn dựa trên cơ sở lời trình bày, chứng cứ mà đương sự cung cấp. Do đó, có trường hợp cùng một sự việc và cùng một Tòa án xét xử nhưng lại có nhiều cách hiểu, cách áp dụng nguyên tắc cơ bản khác nhau. Ngoài ra, nhiều vụ việc áp dụng nguyên tắc cơ bản không rõ ràng, khó hiểu và không thuyết phục. Vì vậy, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải có sự am hiểu pháp luật, có kỹ năng áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, nhằm giải quyết vụ việc một cách triệt để, hợp tình, hợp lý, đảm bảo quyền lợi của các bên.
Lê Thanh Hà
Nhận diện vi phạm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
-
1Hướng dẫn công tác quản lý, kiểm tra và báo cáo đánh giá việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự
-
2Kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án dân sự
-
3Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại
-
4Nhận diện vi phạm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
-
5Một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự
-
6Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết vụ việc dân sự
Bài viết chưa có bình luận nào.