Nhận diện vi phạm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại

01/08/2025 09:08

(kiemsat.vn)
Tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng. Vi phạm chủ yếu xảy ra trong quá trình lập hồ sơ, thẩm định cho vay vốn; nguyên nhân từ phía khách hàng, người có tài sản bảo đảm và từ phía tổ chức tín dụng không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng, tính hiệu quả của phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp…

Trong bối cảnh kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân càng nhiều và càng có giá trị lớn, hệ thống các tổ chức tín dụng ngày càng phát triển về quy mô, chất lượng dịch vụ và vốn. Các tổ chức tín dụng đã hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh đẩy mạnh quy mô, hoạt động, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh không ít trường hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán, vi phạm hợp đồng bảo đảm tiền vay dẫn đến tranh chấp.

1. Một số dạng vi phạm, thiếu sót thường gặp qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại

Qua phân tích số liệu cho thấy, phần lớn các yêu cầu khởi kiện của ngân hàng đều được Tòa án chấp nhận (335 vụ/346 vụ chiếm tỉ lệ 96,8%), các yêu cầu khởi kiện của ngân hàng liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với khoản vay và các khoản tiền lãi phát sinh của tổ chức, cá nhân có giao dịch đảm bảo đều được Tòa án tuyên buộc bị đơn phải trả nợ cho ngân hàng (gồm nợ gốc và nợ lãi). Tuy nhiên, đối với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng về phát mãi tài sản thu hồi vốn vay cho thấy, quá trình thực hiện thẩm định tài sản thế chấp cho vay còn một số thiếu sót trong việc tính nợ lãi, lãi phạt, phạm vi bảo lãnh…, dẫn đến các bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, không thể thi hành án, phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Vi phạm được phát hiện trong quá trình giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng rất đa dạng, nhưng chủ yếu xảy ra trong quá trình lập hồ sơ, thẩm định cho vay vốn như: Việc thực hiện thẩm định hồ sơ vay vốn khi thẩm định tài sản thế chấp không xem xét thực tế mà chỉ dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đứng tên người thế chấp hoặc người được ủy quyền thế chấp vay vốn trong khi tài sản bị đem thế chấp do người khác (chủ sở hữu thực sự, chủ cũ…) vẫn đang quản lý, sử dụng mà không biết tài sản này đã bị thế chấp cho ngân hàng hoặc có trường hợp cán bộ ngân hàng cho người vay ký khống hồ sơ, mượn chứng minh nhân dân của người khác lập tài khoản giải ngân để đáo hạn cho người vay mà người vay không biết đến hậu quả khi tranh chấp (Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp).

Việc thẩm định giá trị tài sản thế chấp không đúng giá trị thực tế và cho vay vượt quá mức giá trị tài sản thế chấp nên trong các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vì bên vay vi phạm cam kết trả nợ. Đa số tài sản thế chấp đều không đủ để thanh toán nợ cho ngân hàng, trở thành nợ xấu, gây thất thoát cho nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế.

Thẩm định tài sản thế chấp về hiện trạng sử dụng đất không đúng với biên bản thẩm định, trên đất có tài sản của bên thứ ba nhưng vẫn thẩm định giá và đưa vào hợp đồng thế chấp tài sản mà không có ý kiến của người thứ ba; tài sản thế chấp dùng để đảm bảo cho nhiều khoản vay nhưng khi xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay này mà không đảm bảo cho khoản vay khác dẫn đến khoản vay sau không có tài sản thế chấp để thu hồi nợ; tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của vợ chồng nhưng khi ký kết hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo khoản vay chỉ một bên vợ hoặc chồng ký kết; thỏa thuận tiền phạt vi phạm hợp đồng không đúng quy định của pháp luật; tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đã bị bản án hành chính có hiệu lực pháp luật tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất dẫn đến không thể phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay; giải chấp tài sản thế chấp đối với khoản nợ gốc nên khi thu hồi khoản lãi tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản lãi không đủ để thu hồi vốn, dẫn đến một phần khoản nợ lãi trở thành không có tài sản đảm bảo.

Khi tiến hành thẩm định cho vay, ngân hàng không phát hiện tài sản dùng để thế chấp cho ngân hàng có nhà xây trên đất chồng lấn sang thửa đất khác; xác định nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng có bảo lãnh; không kiểm tra việc quản lý, sử dụng vốn vay; vi phạm trong việc nhận tài sản bảo lãnh nhưng không thực hiện giao dịch đảm bảo; việc công chứng không chấp hành nghiêm quy định của Luật công chứng, công chứng không đầy đủ thành phần, không đúng trình tự, thủ tục dẫn đến các hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng vô hiệu; Ủy ban nhân dân các cấp chứng thực trên bản sao mà không có bản gốc đối chiếu, chứng thực khống; chứng thực không có mặt của người yêu cầu tại thời điểm chứng thực, chứng thực không đúng trình tự thủ tục…

Nguyên nhân những vi phạm, thiếu sót:

Trước hết là từ phía khách hàng: Chủ yếu do bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, lúc đầu khách hàng trả gốc và lãi theo phân kỳ đúng hạn, nhưng sau đó, cố tình chiếm dụng vốn, vi phạm nghĩa vụ thanh toán, thậm chí có trường hợp ngay sau khi được giải ngân, khách hàng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn, nợ xấu và khởi kiện ra Tòa án. Có những nguyên nhân từ phía người có tài sản bảo đảm như: Người có tài sản bảo đảm có thể chính là người vay hoặc là người thứ ba bảo đảm cho người vay, thường không nhận thức đầy đủ về hậu quả pháp lý của việc thế chấp, nên cố giữ tài sản của mình, nhất là tài sản bảo đảm của người thứ ba, có thái độ bất hợp tác, ngăn cản, chống đối quyết liệt, thậm chí là xây dựng thêm nhà cửa, công trình khác gắn liền với đất, đưa thêm người khác quản lý, sử dụng tài sản trên diện tích đất tranh chấp để đối phó, cố tình vắng mặt hoặc không ký biên bản bàn giao tài sản cho cơ quan chức năng, kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm.

Bên cạnh đó, có nguyên nhân từ phía tổ chức tín dụng đã không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng, tính hiệu quả của phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc không thực sự quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay của cá nhân, doanh nghiệp, có tâm lý chủ quan khi đã có tài sản bảo đảm, cho vay lãi suất cao trong thời gian dài, không có các giải pháp linh hoạt giãn nợ, gia hạn thời hạn trả nợ đối với khách hàng, do cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng với nhau nên bỏ qua nhiều trình tự, thủ tục, điều kiện để được giải ngân. Việc thẩm định hồ sơ thiếu chặt chẽ, không thẩm định trên giá trị thực tế của tài sản bảo đảm, thậm chí có trường hợp nâng giá trị tài sản bảo đảm để cho vay số tiền lớn hơn. Ngoài ra, một số cán bộ ngân hàng lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ, lợi dụng các hoạt động nghiệp vụ được giao, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Công tác thanh tra, kiểm tra của ngân hàng chưa kịp thời, việc phát hiện, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng còn chậm, chưa triệt để.

2. Một số kiến nghị phòng ngừa vi phạm

Thứ nhất, cần rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng, đề xuất để sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tín dụng, hoạt động cho vay trong giao dịch dân sự.

Thứ hai, ngân hàng Nhà nước cần ban hành quy trình thẩm định tài sản khi cho vay một cách chặt chẽ, đầy đủ để áp dụng thống nhất trong hệ thống tổ chức tín dụng. Theo đó, khi thẩm định cũng như khi định giá tài sản, nhất thiết phải quay phim, chụp hình tài sản thế chấp, lập biên bản định giá đối với tài sản thế chấp. Đối với việc định giá tài sản thì nhất thiết phải trưng cầu tổ chức thẩm định giá độc lập để bảo đảm tính khách quan và chính xác. Trong quá trình cho vay, cần thường xuyên theo dõi tình trạng tài sản bảo đảm để kịp thời phát hiện những thay đổi, biến động về tài sản như xây dựng, cơi nới thêm nhà, công trình trên đất, cho người khác thuê…

Thứ ba, tổ chức tín dụng phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay đúng mục đích so với phương án vay vốn, quản lý chặt chẽ tài sản thế chấp; tăng cường kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng vốn vay và tài sản thế chấp để bảo đảm khả năng trả nợ cũng như bảo toàn tài sản và giá trị của nó.

Thứ tư, các tổ chức tín dụng cần đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm khi cho vay mà không quá phụ thuộc vào biện pháp thế chấp tài sản là các bất động sản, mở rộng phạm vi cho vay có sử dụng biện pháp cầm cố tài sản, quan tâm nhiều hơn đến các tài sản là động sản để đảm bảo khoản vay. Điều 292 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ tài sản.

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát để kịp thời phát hiện các trường hợp vi phạm trong hoạt động ngân hàng… Từ đó, đề ra giải pháp hạn chế tối đa các vi phạm, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Thứ sáu, trong trường hợp sử dụng biện pháp đối với tài sản của người thứ ba, cần thực hiện quy trình xem xét thẩm định, định giá chặt chẽ, đầy đủ tài sản bảo đảm và giải thích cặn kẽ, rõ ràng cho người thứ ba về hậu quả của việc thế chấp tài sản khi người vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán và yêu cầu họ ký cam kết tự nguyện bàn giao tài sản trong trường hợp phải xử lý tài sản.

Trần Thị Thắng

Kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án dân sự

(Kiemsat.vn) - Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự tại cơ quan Thi hành án dân sự là một biện pháp hữu hiệu giúp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện kịp thời, đầy đủ, toàn diện vi phạm trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án được cơ quan, tổ chức và công dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang