Kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án dân sự
(kiemsat.vn) Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự tại cơ quan Thi hành án dân sự là một biện pháp hữu hiệu giúp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện kịp thời, đầy đủ, toàn diện vi phạm trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án được cơ quan, tổ chức và công dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Một số vấn đề về tương trợ tư pháp hình sự của Việt Nam
Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong thời kỳ thai sản
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại
Trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện trực tiếp kiểm sát tại cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) đã được quy định rõ tại Quy chế công tác kiểm sát THADS, thi hành án hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11 ngày 20/12/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao) và Quy định về quy trình, kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS, thi hành án hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số 94/QĐ-VKSTC ngày 22/3/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao). Theo đó, khi trực tiếp kiểm sát phải bảo đảm các nguyên tắc: Tuân thủ pháp luật về THADS và các quy định của pháp luật khác có liên quan; các quy chế, quy định, hướng dẫn của VKSND tối cao về công tác kiểm sát THADS; đồng thời, bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; đúng phạm vi, kế hoạch kiểm sát; bảo đảm sự vô tư, khách quan, toàn diện và đầy đủ khi tiến hành hoạt động; bảo đảm sự phối hợp hiệu quả, không làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của chủ thể bị kiểm sát.
Từ thực tiễn công tác kiểm sát THADS tại VKSND tỉnh Phú Yên trong những năm qua, tác giả nêu ra một số kỹ năng, kinh nghiệm để nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS như sau:
1. Công tác chuẩn bị
Để cuộc trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS đạt chất lượng, hiệu quả, việc chuẩn bị của Viện kiểm sát là rất quan trọng, trong đó, cần lưu ý một số nội dung sau:
Về việc chọn cơ quan THADS để trực tiếp kiểm sát: Các cơ quan THADS ở Phú Yên gồm có Cục THADS tỉnh và 09 Chi cục thi hành án cấp huyện. Hàng năm, VKSND tỉnh Phú Yên đều tiến hành trực tiếp kiểm sát tại Cục THADS tỉnh và từ 02 đến 03 Chi cục thi hành án cấp huyện.
Đồng thời, trước khi xây dựng kế hoạch trực tiếp kiểm sát, Kiểm sát viên được phân công cần nắm thông tin về vi phạm trong hoạt động THADS tại đơn vị dự kiến sẽ kiểm sát. Việc nắm thông tin được thực hiện từ nhiều nguồn như: Qua theo dõi hoạt động thi hành án; qua đơn khiếu nại, tố cáo; thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng; thông tin từ các cuộc họp giao ban hoặc từ văn bản yêu cầu của VKSND cấp trên, từ báo cáo của VKSND cấp huyện...
Một bước quan trọng là xác định vụ việc cần quan tâm khi tiến hành trực tiếp kiểm sát: Từ các thông tin đã thu thập được, Kiểm sát viên tham mưu lãnh đạo Viện chọn vụ việc cần quan tâm khi tiến hành trực tiếp kiểm sát. Thông thường, nội dung trực tiếp kiểm sát được xác định là toàn bộ hoạt động THADS. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, cần đi sâu kiểm sát một số khâu trong quá trình THADS, như: Việc xác minh điều kiện thi hành án; việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án; việc xử lý các khoản tiền, tài sản thi hành án; việc tiếp nhận, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ...
Ngay từ đầu năm, trên cơ sở kế hoạch công tác trọng tâm, VKSND tỉnh Phú Yên có văn bản gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân cùng cấp đề nghị tham gia giám sát các cuộc trực tiếp kiểm sát trong năm. Trước khi tiến hành trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS, VKSND tỉnh Phú Yên tiếp tục có văn bản mời đại diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc Hội đồng nhân dân cùng cấp tham gia giám sát.
Khi trực tiếp kiểm sát đối với cơ quan THADS cấp huyện, VKSND tỉnh Phú Yên mời lãnh đạo Cục THADS tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp huyện cùng cấp với đơn vị được kiểm sát tham dự buổi công bố quyết định, kế hoạch kiểm sát và buổi công bố dự thảo kết luận; đồng thời, đề nghị VKSND cấp huyện đó cử Kiểm sát viên tham gia cuộc kiểm sát.
Đối với thành viên đoàn kiểm sát, trên cơ sở kế hoạch kiểm sát, trưởng đoàn tổ chức họp, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên; đồng thời, quán triệt những vấn đề cần lưu ý khi tiến hành kiểm sát, trong đó lưu ý về những dạng vi phạm của cơ quan Thi hành án, Chấp hành viên, kế toán...
![]() |
Ảnh minh họa. |
2. Kỹ năng phát hiện vi phạm khi tiến hành trực tiếp kiểm sát tại cơ quan Thi hành án dân sự
- Khi nghiên cứu báo cáo của cơ quan THADS:
Báo cáo của cơ quan THADS về tình hình, kết quả công tác THADS giúp đoàn trực tiếp kiểm sát bước đầu nắm được số liệu, thông tin về tình hình chấp hành pháp luật và kết quả công tác THADS tại thời điểm kiểm sát; nắm được những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án và những kiến nghị, đề xuất của cơ quan THADS (nếu có).
Qua nghiên cứu báo cáo của cơ quan THADS và đối chiếu với hồ sơ, sổ sách, tài liệu về THADS, đoàn trực tiếp kiểm sát thấy được những vấn đề, số liệu chưa được làm rõ hoặc có sự mâu thuẫn để yêu cầu cơ quan THADS báo cáo giải trình. Từ đó, tập trung nghiên cứu hồ sơ, sổ sách, tài liệu có liên quan. Qua đó, xác định chính xác số liệu, thông tin về tình hình và kết quả công tác THADS, xác định vi phạm trong hoạt động THADS, cũng như những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xảy ra vi phạm. Những vấn đề này sẽ giúp việc xây dựng kết luận khi kết thúc cuộc kiểm sát đạt chất lượng, hiệu quả.
- Việc xem xét các loại sổ sách về thi hành án:
Các loại sổ sách về THADS phải được ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác theo đúng quy định tại Thông tư số 04/2023/TT-BTP ngày 14/8/2023 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS (Thông tư số 04/2023). Qua đó, phản ánh trung thực tình hình, kết quả hoạt động THADS của cơ quan Thi hành án.
Khi nghiên cứu, xem xét các loại sổ sách về THADS, Kiểm sát viên cần chú ý làm rõ các vấn đề sau:
+ Cơ quan THADS có lập đầy đủ các loại sổ sách về THADS theo quy định tại Điều 30 Thông tư số 04/2023 không; ngoài các loại sổ sách này, cơ quan THADS có lập thêm sổ nào không?
+ Việc sử dụng, bảo quản các loại sổ sách về THADS có thực hiện đúng quy định tại Điều 30 Thông tư số 04/2023 không? Sổ sách có được ghi chép kịp thời, liên tục và đầy đủ không? Nội dung ghi chép, sử dụng sổ sách như thế nào? Định kỳ hàng quý, 06 tháng và kết thúc năm công tác, cơ quan THADS có thực hiện kết sổ không?...
+ Đối với cơ quan THADS đã áp dụng sổ điện tử thì phải theo đúng biểu mẫu quy định, cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin vào sổ. Việc lập, sử dụng, lưu trữ dữ liệu điện tử có bảo đảm an toàn, an ninh mạng không?
Qua thực tế kiểm sát cho thấy, các dạng vi phạm phổ biến thường gặp của cơ quan THADS là không lập đầy đủ các loại sổ sách, ghi chép sổ sách không đúng, không đầy đủ các cột, mục; không thực hiện việc kết sổ theo quy định hoặc có kết sổ nhưng không có chữ ký của người kết sổ và xác nhận của Thủ trưởng cơ quan THADS...
- Việc nghiên cứu hồ sơ thi hành án:
Hồ sơ thi hành án phản ánh toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án của cơ quan THADS, Chấp hành viên. Kiểm sát hồ sơ thi hành án là hoạt động bắt buộc của Kiểm sát viên khi trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS nhằm làm rõ quá trình tổ chức thi hành án, việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ hồ sơ có vi phạm hay không.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS và Điều 31 Thông tư số 04/2023, hồ sơ thi hành án bao gồm: Bản án, quyết định tổ chức thi hành; quyết định thi hành án; các biên bản bàn giao, xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ; biên bản xác minh, biên bản giải quyết việc thi hành án; giấy báo; giấy triệu tập; giấy mời; các đơn yêu cầu, khiếu nại về thi hành án; các biên lai, phiếu thu, phiếu chi; các tài liệu liên quan đến việc xử lý tài sản để thi hành án; các công văn, giấy tờ của cơ quan THADS, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc THADS, như: Công văn xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án; công văn trao đổi với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình thi hành án; công văn yêu cầu chuyển tiền, tang vật còn thiếu hoặc chưa chuyển giao cho cơ quan THADS; các giấy tờ, tài liệu liên quan khác (nếu có). Các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án phải được sắp xếp cẩn thận, đánh số bút lục từ số 01 đến số cuối cùng và liệt kê đầy đủ vào bảng danh mục in trên bìa hồ sơ thi hành án...
Khi kiểm sát hồ sơ thi hành án, Kiểm sát viên cần lưu ý những nội dung sau:
Thứ nhất, Chấp hành viên có ghi đầy đủ, chi tiết nội dung các mục đã in trên bìa hồ sơ hay không? Việc sắp xếp, đánh số bút lục các tài liệu trong hồ sơ; việc ghi chép, bảo quản hồ sơ thi hành án có đúng quy định không?... Cần chú ý phát hiện các trường hợp làm giả, rút tài liệu, chèn tài liệu trong hồ sơ khi số thứ tự không đúng, không hợp lý về mặt thời gian, có dấu hiệu tẩy xóa, thậm chí cần xem xét cả con dấu đóng trên các tài liệu thi hành án...
Thực tế kiểm sát hồ sơ thi hành án (tháng 12/2020) đã phát hiện trường hợp hồ sơ thi hành án (bản chính) của Chi cục THADS huyện K có dấu hiệu chèn thêm bút lục, con dấu xác nhận của Ủy ban nhân dân (UBND) xã trên các biên bản thi hành án có màu mực mới, trong khi tài liệu này được lập từ cuối năm 2019, đầu năm 2020… Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên tiến hành trực tiếp xác minh, lãnh đạo UBND xã xác nhận từ ngày 29/7/2020 đơn vị đã thay con dấu cũ và sử dụng con dấu mới. Con dấu đóng trên các biên bản thi hành án là con dấu mới, trong khi các biên bản thi hành án được lập ở thời điểm năm 2019 và đầu năm 2020. Tất cả các thành phần có ghi tên trong các biên bản thi hành án đều xác nhận chỉ mới ký các biên bản này vào tháng 12/2020… Từ đó, VKSND tỉnh xác định Chấp hành viên đã lập khống biên bản để đưa vào hồ sơ thi hành án.
Thứ hai, Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ thi hành án phải làm rõ các vấn đề sau:
- Nội dung của bản án, quyết định của Tòa án phải thi hành; các quyết định về thi hành án trong hồ sơ có phù hợp với bản án, quyết định phải thi hành và các quy định của pháp luật về THADS hay không? Tính có căn cứ trong việc ra các quyết định về thi hành án và thực hiện các hoạt động thi hành án; việc thông báo, niêm yết quyết định thi hành án; việc thi hành án trong thời gian tự nguyện thi hành án...; việc xác minh điều kiện thi hành án và xử lý kết quả xác minh; việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án; việc Chấp hành viên bảo đảm quyền của đương sự trong việc thỏa thuận về giá trị của tài sản thi hành án và lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá tài sản; số dư trên hệ thống tài khoản kế toán thi hành án, phân tích số dư tài khoản đối với từng vụ việc, kiểm tra xem còn tồn tiền trên tài khoản nhưng ra quyết định chưa có điều kiện, chậm chi trả tiền, gửi tiết kiệm không đúng kỳ hạn hoặc không gửi tiết kiệm, hay chậm hoàn tạm ứng cưỡng chế hay không; việc tiếp nhận, bảo quản, xử lý vật chứng; việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình thi hành án (nếu có)...
Để phát hiện vi phạm trong việc tổ chức thi hành án, Kiểm sát viên cần kiểm tra, xem xét tính có căn cứ, hợp pháp trong các quyết định, hành vi của Chấp hành viên, cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án. Cụ thể:
Đối với các quyết định về thi hành án của Chấp hành viên, cơ quan THADS, cần xem xét căn cứ và thời hạn ban hành, nội dung quyết định và việc gửi thông báo (thời hạn, đối tượng, nội dung…), đối chiếu với các điều luật tương ứng để xác định có vi phạm trong việc ra các quyết định về hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, ủy thác, áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế THADS không...
Đối với các hành vi về thi hành án (ấn định thời hạn tự nguyện thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức cưỡng chế, kê biên tài sản, cho đương sự thỏa thuận về việc THADS hoặc thỏa thuận về giá, về xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản...), cần xem xét căn cứ thực hiện, thời gian thực hiện và nội dung đã tiến hành, việc lập các biên bản và nội dung các biên bản về thi hành án (như ngày lập biên bản, thành phần tham gia, nội dung biên bản)… Từ đó, đối chiếu với các điều luật tương ứng để xác định có hay không có vi phạm.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra sổ nhận đơn và hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án, Kiểm sát viên cần làm rõ những nội dung sau: Việc nhận đơn và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo có đảm bảo thời gian luật định không? Việc phân loại khiếu nại, tố cáo theo đơn của đương sự (như khiếu nại về việc chậm thi hành án, khiếu nại về việc kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản thi hành án, khiếu nại về hành vi, quyết định của Chấp hành viên). Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS có đúng, đầy đủ so với nội dung khiếu nại, tố cáo? Có bao nhiêu trường hợp đương sự khiếu nại, tố cáo có căn cứ? Bao nhiêu trường hợp khiếu nại, tố cáo sai sự thật ? Hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục giải quyết có đúng quy định pháp luật không?
Quá trình nghiên cứu các nội dung trên, cần thực hiện các bước sau: Đối chiếu với quy định của pháp luật để xác định có vi phạm pháp luật trong hoạt động tổ chức thi hành án không; nội dung, mức độ vi phạm như thế nào; nguyên nhân; hình thức khắc phục hậu quả, xử lý vi phạm và người có vi phạm, cụ thể: (1) Có vi phạm trong việc thông báo, niêm yết về thi hành án hay không?; (2) Việc xác minh điều kiện thi hành án có đảm bảo theo đúng các quy định của Luật THADS năm 2008 và các văn bản liên quan không? Nếu có thì vi phạm về hình thức hay nội dung, hậu quả…?; (3) Việc hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ ủy thác thi hành án có vi phạm không (về thời hạn ra quyết định, căn cứ và nội dung quyết định)?; (4) Việc áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án có đảm bảo đúng quy định hay không (về căn cứ, thẩm quyền áp dụng, thủ tục thực hiện các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế)?; (5) Việc thu, chi, tiền, tài sản và kế toán nghiệp vụ thi hành án, thu chi các khoản nộp ngân sách…có những vi phạm như thế nào?; (6) Vi phạm trong việc tiếp nhận, bảo quản, xử lý vật chứng?...
Thứ ba, qua thực tế kiểm sát hồ sơ thi hành án cho thấy, một số dạng vi phạm thường gặp là:
Vi phạm trong việc thông báo về thi hành án, niêm yết văn bản thi hành án: Qua trực tiếp kiểm sát, Viện kiểm sát phát hiện nhiều trường hợp cơ quan THADS không thông báo quyết định thi hành án cho đương sự, thậm chí có trường hợp quyết định thi hành án được thông báo trước ngày ra quyết định thi hành án. Bên cạnh đó, việc niêm yết quyết định thi hành án cũng có nhiều vi phạm.
Ví dụ, ngày 12/12/2022, Chi cục THADS huyện B ra Quyết định thi hành án số 63/QĐ-CCTHADS thi hành Bản án số 37/2022/DSST ngày 23/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, theo đó, bà Nguyễn Thị T phải trả cho ông Nguyễn Văn B 60 triệu đồng về khoản tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, theo biên bản thi hành án, Chi cục THADS đã giao quyết định thi hành án nói trên cho đương sự từ ngày 09/6/2022, tức là trước đó hơn 06 tháng.
Trường hợp khác, Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS ngày 11/10/2022 của Chi cục THADS huyện C không thực hiện được việc thông báo cho người phải thi hành án, nên Chấp hành viên tiến hành niêm yết công khai nhưng biên bản niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã và tại nhà ở của đương sự không có chữ ký của người chứng kiến.
Vi phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên: Quyết định thi hành án số 207/QĐ-CTHADS ngày 15/5/2023 của cơ quan THADS thi hành hình phạt bổ sung đối với Lê Thị C (phải nộp 60 triệu đồng); ghi nhận sự tự nguyện của Lê Thị C nộp 15 triệu đồng; chị C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Từ thời điểm ra quyết định thi hành án đến nay (tháng 4/2024), Chấp hành viên không thông báo về thi hành án cho đương sự (vi phạm khoản 2 Điều 39 Luật THADS năm 2008); không tiến hành bất cứ hoạt động thi hành án nào, hồ sơ thi hành án chỉ có các tài liệu: Quyết định thi hành án, quyết định phân công Chấp hành viên, bản sao các bản án, biên bản giao quyết định thi hành án và văn bản gửi Cơ quan điều tra Công an tỉnh đề nghị chuyển khoản tiền 15 triệu đồng (vi phạm Điều 20, khoản 8 Điều 21 Luật THADS năm 2008).
Hồ sơ thụ lý số 16/2020 ngày 05/10/2020 của Chi cục THADS huyện X buộc UBND xã M, huyện X phải trả cho ông Trần Văn A số tiền 20 triệu đồng: Từ ngày ra quyết định thi hành án đến thời điểm kiểm sát (tháng 6/2022), Chấp hành viên chỉ ra 01 thông báo về thi hành án.
Vi phạm về xác minh điều kiện thi hành án: Chậm xác minh điều kiện thi hành án, dẫn đến đương sự có đủ thời gian tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án; vi phạm trong việc thông báo kết quả xác minh cho người được thi hành án; nội dung biên bản xác minh không phản ánh đúng thực tế; xác minh không rõ hiện trạng tài sản của người phải thi hành án hoặc xác minh tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác làm cho quá trình tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản gặp nhiều khó khăn… Bên cạnh đó, còn có việc bên phải thi hành án không trung thực, không cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án; không nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn, vi phạm trong quản lý, xử lý vật chứng…, nhưng Chấp hành viên không phát hiện được vi phạm để có biện pháp xử lý.
Thứ tư, việc lập phiếu kiểm sát hoặc lập biên bản về hoạt động kiểm sát.
Phiếu kiểm sát là tài liệu được Kiểm sát viên lập khi phát hiện có vi phạm pháp luật như vi phạm trong việc ra các quyết định thi hành án, quá trình xác minh, hay áp dụng các biện pháp cưỡng chế, xử lý tài sản... Biên bản là tài liệu do thành viên đoàn trực tiếp kiểm sát lập sau khi kết thúc kiểm sát một nội dung công việc trong hoạt động THADS như kiểm tra sổ sách, quỹ tiền mặt hay kho vật chứng... Việc lập phiếu kiểm sát khi phát hiện vi phạm và việc lập biên bản là bắt buộc. Do đó, Kiểm sát viên cần chú ý một số nội dung sau:
Nội dung phiếu kiểm sát hoặc nội dung biên bản thể hiện các thông tin cơ bản về việc thi hành án (số, ngày-tháng-năm của bản án, quyết định cần thi hành; số quyết định thi hành án; họ tên người phải thi hành án; nội dung nghĩa vụ phải thi hành; diễn biến cơ bản của quá trình thi hành án); hoặc các thông tin về nội dung công việc được kiểm sát (như thông tin về hoạt động quản lý, thu, chi tiền thi hành án...); nêu các vi phạm được phát hiện trong quá trình thi hành án hoặc quá trình thực hiện công việc; ý kiến của Chấp hành viên thụ lý vụ việc hoặc của công chức thực thi công vụ; quan điểm của thành viên trực tiếp kiểm sát vụ việc. Phiếu kiểm sát và biên bản phải có đầy đủ chữ ký của thành viên trực tiếp kiểm sát vụ việc, Chấp hành viên hoặc công chức thụ lý việc thi hành án.
Quá trình lập phiếu kiểm sát hoặc biên bản, Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát vụ việc có thể trao đổi với Chấp hành viên, công chức thụ lý vụ việc về kết quả kiểm sát, đánh giá về các vi phạm, nguyên nhân của vi phạm; ghi đầy đủ hoặc để Chấp hành viên tự ghi đầy đủ, trung thực ý kiến của họ về vụ việc.
Thứ năm, việc tiến hành xác minh vụ việc thi hành án, tài sản thi hành án hoặc những vấn đề cần thiết phục vụ cho hoạt động kiểm sát.
Trên thực tế cho thấy, việc xác minh vụ việc thi hành án, tài sản thi hành án hoặc những vấn đề cần thiết phục vụ cho hoạt động kiểm sát là không nhiều nhưng lại rất quan trọng. Khi đề xuất xác minh, Kiểm sát viên cần báo cáo, nêu rõ nội dung cần xác minh, thời gian và các thành viên tham gia. Chấp hành viên thụ lý vụ việc thi hành án có thể được mời tham gia xác minh nếu thấy cần thiết. Quá trình xác minh, thành viên tiến hành xác minh có thể tự mình hoặc phối hợp với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đo đạc, lập sơ đồ; làm việc với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến nội dung xác minh; việc xác minh phải lập biên bản, ghi rõ thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung và kết quả xác minh. Biên bản xác minh phải có đủ chữ ký của các thành viên tham gia và có xác nhận của đại diện UBND nơi tiến hành xác minh.
Thứ sáu, ghi sổ nhật ký đoàn trực tiếp kiểm sát.
Trưởng đoàn trực tiếp kiểm sát hoặc thư ký đoàn phải ghi sổ nhật ký đoàn trực tiếp kiểm sát, phản ánh đầy đủ diễn biến hoạt động của đoàn nói chung và từng thành viên nói riêng theo từng ngày trong suốt quá trình trực tiếp kiểm sát; những yêu cầu của đoàn; những phản ánh, kiến nghị của cơ quan Thi hành án, của Chấp hành viên đối với hoạt động kiểm sát (nếu có). Sổ nhật ký do trưởng đoàn quản lý trong quá trình trực tiếp kiểm sát, được ghi chép ngay từ ngày đầu trực tiếp kiểm sát, được trưởng đoàn ký xác nhận vào từng trang và khi kết thúc ghi sổ. Sổ nhật ký đoàn trực tiếp kiểm sát được lưu trữ trong hồ sơ trực tiếp kiểm sát.
Thứ bảy, xây dựng dự thảo kết luận trực tiếp kiểm sát.
Việc xây dựng dự thảo kết luận trực tiếp kiểm sát do thư ký đoàn trực tiếp kiểm sát (hoặc thành viên khác được phân công) thực hiện theo chỉ đạo của trưởng đoàn. Dự thảo kết luận được xây dựng theo mẫu, có nội dung theo khoản 9 Điều 9 Quy định về quy trình, kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS, thi hành án hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số 94/QĐ-VKSTC ngày 22/3/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao).
Dự thảo kết luận cần đánh giá đúng, đầy đủ hoạt động thi hành án qua kết quả trực tiếp kiểm sát, xác định vi phạm và nguyên nhân khách quan, chủ quan của những vi phạm… Từ đó, kiến nghị, yêu cầu các biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm. Tùy theo nội dung các vi phạm đã được kết luận, có thể xây dựng kiến nghị riêng (theo mẫu do VKSND tối cao ban hành).
Tùy theo phạm vi trực tiếp kiểm sát, kết quả kiểm sát và mức độ vi phạm của cơ quan được kiểm sát, trưởng đoàn thống nhất với thủ trưởng cơ quan THADS được kiểm sát về thành phần, thời gian, địa điểm, phương thức công bố dự thảo kết luận trực tiếp kiểm sát. Việc công bố dự thảo kết luận phải được lập biên bản theo đúng quy định của ngành.
3. Những việc cần làm sau khi kết thúc trực tiếp kiểm sát
Sau khi kết thúc kiểm sát, cần chú ý thực hiện các nội dung sau: (1) Theo dõi, đôn đốc việc trả lời kết luận trực tiếp kiểm sát; (2) Xây dựng, ban hành thông báo rút kinh nghiệm chung về nghiệp vụ kiểm sát hoặc về các dạng vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS được phát hiện qua quá trình trực tiếp kiểm sát; (3) Tập hợp các dạng vi phạm, nguyên nhân của vi phạm để ban hành kiến nghị cơ quan THADS cấp trên có biện pháp chấn chỉnh, phòng ngừa chung. Trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức khác có liên quan đến hoạt động THADS (vi phạm trong hoạt động thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá, vi phạm trong hoạt động bán đấu giá của tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án...), thì ban hành kiến nghị, kháng nghị với cơ quan quản lý có thẩm quyền để có biện pháp chấn chỉnh, phòng ngừa chung. Trường hợp phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì chuyển Cơ quan điều tra VKSND tối cao để xử lý theo thẩm quyền; hoặc phát hiện bản án, quyết định thi hành án có dấu hiệu oan sai, bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành thì chuyển cơ quan có thẩm quyền kiến nghị xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm; (4) Phúc tra việc thực hiện kết luận trực tiếp kiểm sát.
Hồ Ngọc Thảo
Hướng dẫn công tác quản lý, kiểm tra và báo cáo đánh giá việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự
-
1Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại
-
2Hướng dẫn công tác quản lý, kiểm tra và báo cáo đánh giá việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự
-
3Kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án dân sự
Bài viết chưa có bình luận nào.