So sánh pháp luật về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ và Việt Nam (Kỳ I)

14/05/2025 10:51

(kiemsat.vn)
Bài viết tập trung so sánh một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự như nguồn luật điều chỉnh, căn cứ chấp nhận và loại trừ chứng cứ, những vấn đề không phải chứng minh, tiêu chuẩn chứng minh; trên cơ sở đó, đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

Chứng cứ và chứng minh giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong tố tụng hình sự, quyết định kết quả của quá trình xác định sự thật vụ án. Bài viết tập trung so sánh một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự như nguồn luật điều chỉnh, căn cứ chấp nhận và loại trừ chứng cứ, những vấn đề không phải chứng minh, tiêu chuẩn chứng minh; trên cơ sở đó, đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

Chứng cứ và chứng minh là những vấn đề cốt lõi, mang tính lý luận và thực tiễn cao, nhưng cũng rất phức tạp trong tố tụng hình sự (TTHS). Các quốc gia trên thế giới quy định về chứng cứ, chứng minh trong Bộ luật/Luật TTHS và/hoặc một đạo luật riêng và thường không giống nhau, đặc biệt là khi so sánh các nước theo hệ thống dân luật với các nước theo hệ thống thông luật. Tuy nhiên, xu hướng hài hòa hóa và nhất thể hóa pháp luật đã thúc đẩy quá trình nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ của pháp luật TTHS nói chung và chế định chứng cứ, chứng minh nói riêng giữa các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đó là: “Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam…”.

Hoa Kỳ là một quốc gia có nền khoa học pháp lý lâu đời, tiến bộ và điển hình cho hệ thống thông luật. Mỗi bang của Hoa Kỳ có những bộ quy tắc riêng về chứng cứ, trong đó xác định những gì được và không được chấp nhận bởi Tòa án. Vì vậy, sẽ không khả thi nếu so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật một hoặc một số tiểu bang của Hoa Kỳ, thay vào đó, việc lựa chọn và so sánh với pháp luật liên bang về chứng cứ, chứng minh trong TTHS sẽ phù hợp hơn. Tuy nhiên, khi cần thiết, bài viết kết hợp giới thiệu pháp luật của tiểu bang để cho thấy sự cụ thể hóa pháp luật liên bang.

1. Nguồn luật quy định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự

- Nguồn luật của Hoa Kỳ quy định về chứng cứ và chứng minh trong TTHS:

Những vấn đề liên quan đến chứng cứ và chứng minh trong các vụ án dân sự và vụ án hình sự ở cấp độ liên bang hiện nay tại Hoa Kỳ chủ yếu được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật có tên gọi là Quy tắc liên bang về chứng cứ (Federal Rules of Evidence - gọi tắt là FRE). FRE được phê chuẩn vào ngày 02/01/1975 và lần sửa đổi mới nhất là vào ngày 01/12/2020. Về cơ bản, những quy tắc này được áp dụng đối với quá trình tố tụng tại các Tòa án Hoa Kỳ, cùng với một số trường hợp ngoại lệ. Mục đích của FRE là thực hiện một cách công bằng mọi quá trình tố tụng, loại trừ những phí tổn và sự chậm trễ bất hợp lý, thúc đẩy sự phát triển của luật chứng cứ, với đích đến cuối cùng là làm sáng tỏ sự thật và bảo đảm một phán quyết đúng đắn.

FRE có tất cả 11 điều (68 quy tắc), theo thứ tự bao gồm: Những quy định chung; thông báo tư pháp; suy đoán trong các vụ án dân sự; sự liên quan và những giới hạn của nó; đặc quyền; nhân chứng; lời khai quan điểm và chuyên gia; chứng cứ tin đồn/thuật lại; sự xác thực và xác nhận; nội dung của bản viết, bản ghi và ảnh; những quy tắc hỗn hợp.

Nếu phần lớn quy định của FRE tập trung vào chứng cứ thì Quy tắc liên bang về TTHS (Federal Rules of Criminal Procedure) và Quy tắc liên bang về thủ tục phúc thẩm (Federal Rules of Appellate Procedure) điều chỉnh trình tự, thủ tục TTHS, đồng thời cũng là quá trình, cách thức chứng minh trong các vụ án hình sự. Ngoài ra, những vấn đề liên quan đến chứng cứ, chứng minh còn được quy định, giải thích trong các nguồn luật khác như Bộ luật Hoa Kỳ (US Code) và hệ thống án lệ. Quy tắc 1101(e) Điều XI của FRE quy định rõ một đạo luật liên bang hoặc một quy tắc được ban hành bởi Tòa án tối cao có thể quy định việc chấp nhận hoặc loại trừ chứng cứ một cách độc lập với những quy tắc trong FRE.

- Nguồn luật của Việt Nam quy định về chứng cứ và chứng minh trong TTHS:

Chứng cứ, chứng minh trong TTHS hiện nay tại Việt Nam được điều chỉnh chủ yếu bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Tương tự Nga và Trung Quốc, Việt Nam xây dựng một chương riêng (Chương VI) trong BLTTHS năm 2015 để quy định những vấn đề thuộc nội hàm của chứng cứ và chứng minh như: Khái niệm, các loại nguồn của chứng cứ, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Ngoài ra, trong các chương khác cũng có quy định về trách nhiệm, tiêu chuẩn chứng minh (Điều 13, Điều 15); hình thức và nội dung biên bản tố tụng (Điều 133); kết luận giám định (Điều 213); kết luận định giá tài sản (Điều 221) với đặc điểm là các loại nguồn của chứng cứ.

Bên cạnh BLTTHS năm 2015, các cơ quan ngành tư pháp trung ương cũng ban hành văn bản quy định cụ thể về các loại biểu mẫu tố tụng riêng của ngành mình. Vấn đề quản lý kho vật chứng, niêm phong, mở niêm phong vật chứng cũng được điều chỉnh bởi các văn bản của Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Ngoài hệ thống văn bản pháp luật thì Việt Nam cũng thừa nhận án lệ như một nguồn luật. Tuy nhiên, tất cả 14 án lệ về hình sự cho đến thời điểm hiện tại chỉ hướng đến việc giải thích một số quy định của luật nội dung; không có án lệ nào giải thích quy định về chứng cứ và chứng minh trong TTHS.

- So sánh nguồn luật của Hoa Kỳ và Việt Nam quy định về chứng cứ và chứng minh trong TTHS:

Từ nội dung trên có thể nhận thấy, cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều sử dụng văn bản pháp luật là nguồn luật chính để quy định về những vấn đề trọng tâm của chứng cứ, chứng minh trong TTHS. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất là: Hoa Kỳ sở hữu một bộ quy tắc riêng về chứng cứ trong các vụ án hình sự và dân sự bên cạnh các quy tắc chung về TTHS và thủ tục phúc thẩm; trong khi đó, Việt Nam lồng ghép chế định chứng cứ, chứng minh trong một chương của BLTTHS năm 2015. Rõ ràng việc quy định chung trong luật TTHS hay quy định riêng trong một đạo luật luôn có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, việc có một đạo luật riêng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà làm luật quy định một cách chi tiết, chặt chẽ, chuyên sâu và toàn diện hơn về chứng cứ. Điều này được minh chứng rất rõ qua sự vượt trội về số lượng các quy tắc về chứng cứ (68 quy tắc) của Hoa Kỳ so với số lượng các điều luật (24 điều) về chứng cứ và chứng minh của Việt Nam. Việc có một luật riêng cũng tránh được sự lặp lại một số quy định giống nhau về chứng cứ và chứng minh trong các loại án, ví dụ: Khái niệm, thuộc tính của chứng cứ; kiểm tra, đánh giá chứng cứ... Ngược lại, để hiểu được những quy tắc về chứng cứ trong một luật riêng như FRE, đòi hỏi phải đồng thời nắm bắt các quy tắc về TTHS được quy định bởi văn bản pháp luật khác.

Nếu chọn phương án ban hành một luật riêng thì Việt Nam cần xác định phạm vi điều chỉnh của luật này bao gồm những vấn đề về chứng cứ, chứng minh trong tất cả các loại tố tụng tư pháp hay chỉ trong TTHS (ví dụ: Vương quốc Anh có Luật về cảnh sát và chứng cứ hình sự năm 1984). Như đã trình bày, FRE của Hoa Kỳ áp dụng cho cả vụ án hình sự và vụ án dân sự, bởi theo quan điểm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ chỉ có hai loại án này. Đối với Việt Nam, ngoài vụ án hình sự, vụ án dân sự còn có vụ án hành chính; hơn nữa có rất nhiều điểm khác biệt trong các quy định về chứng cứ, chứng minh giữa BLTTHS năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015. Đây là những yếu tố cần được xem xét, đánh giá cẩn trọng trước khi lựa chọn phương án cải cách nguồn luật điều chỉnh về chứng cứ, chứng minh của Việt Nam.

Một phương án khác đơn giản hơn là vẫn sử dụng BLTTHS năm 2015 làm nguồn luật chính điều chỉnh vấn đề chứng cứ và chứng minh, nhưng sẽ tiến hành sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện một số quy định, đặc biệt là quy định về các căn cứ chấp nhận, loại trừ chứng cứ (được trình bày trong mục tiếp theo của bài viết). Phương án này sẽ không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn đến các luật tố tụng khác; việc áp dụng cũng thuận tiện vì cơ bản chỉ cần sử dụng một đạo luật. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, phải ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết; kết hợp với việc nghiên cứu chọn lọc và phát triển thành án lệ những bản án có các nội dung, lập luận chặt chẽ, hợp lý, thuyết phục và có giá trị giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định về chứng cứ và chứng minh trong TTHS.

2. Căn cứ chấp nhận, loại trừ một số loại chứng cứ trong tố tụng hình sự

Trong mục này của bài viết, tác giả lựa chọn quy định của pháp luật Hoa Kỳ về một số loại chứng cứ có khả năng so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam, tập trung vào hai nội dung quan trọng là các yêu cầu đặt ra để được chấp nhận là chứng cứ và những trường hợp loại trừ chứng cứ. Đây là những nội dung trực tiếp liên quan đến việc đánh giá chứng cứ, một vấn đề mà các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Việt Nam rất quan tâm và còn nhiều tranh luận.

Các quy định của FRE cho thấy, pháp luật Hoa Kỳ không có sự phân biệt giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ. Ngược lại, phương diện khoa học và pháp luật TTHS Việt Nam đều có sự phân biệt giữa chứng cứ và nguồn của chứng cứ. Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 thì “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Trong khi đó, khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 quy định rõ chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn cụ thể nào. Dưới góc độ khoa học, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng, chứng cứ là những thông tin xác thực, liên quan đến vụ án hình sự và được thu thập hợp pháp; còn nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng những thông tin đó. Để thuận tiện cho việc so sánh, trong mục này, hai thuật ngữ chứng cứ và nguồn chứng cứ được sử dụng với nghĩa tương đồng.

Trong Chương VI BLTTHS năm 2015, quy định về những vấn đề chung như đối tượng chứng minh, khái niệm chứng cứ, thu thập chứng cứ tập trung vào từng loại nguồn chứng cứ với cấu trúc bao gồm các phần như nội dung, tiêu chuẩn để được xem là chứng cứ và lý do loại trừ. Một số loại nguồn chứng cứ như vật chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản còn có thêm khái niệm, thu thập, bảo quản và xử lý. Tuy nhiên, Chương VI BLTTHS năm 2015 còn khá sơ sài, thiếu tính đồng bộ, chặt chẽ và cụ thể, điển hình như quy định về một số loại nguồn chứng cứ được trình bày và so sánh dưới đây:

- Lời nhận tội:

Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về lời nhận tội:

Trong FRE không có quy định về sự thú tội, mà loại chứng cứ này được quy định tại Điều 3501 Bộ luật Hoa Kỳ (US Code). Theo đó, sự thú tội được hiểu là bất kỳ sự thú nhận có tội đối với bất kỳ tội phạm hình sự nào hoặc bất kỳ lời tự buộc tội nào (self-incriminating statement) được đưa ra bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Điều luật nhấn mạnh sự thú tội được chấp nhận là chứng cứ nếu được đưa ra một cách tự nguyện. Thẩm quyền xác định bất kỳ vấn đề nào liên quan đến sự tự nguyện thuộc về Thẩm phán xét xử (không có sự hiện diện của Bồi thẩm đoàn). Khi Thẩm phán xác định lời nhận tội được tự nguyện đưa ra, được chấp nhận là chứng cứ thì Thẩm phán sẽ cho phép Bồi thẩm đoàn nghe những chứng cứ liên quan đến vấn đề tự nguyện và chỉ dẫn Bồi thẩm đoàn đánh giá “trọng lượng” của lời nhận tội nếu Bồi thẩm đoàn cảm thấy xứng đáng trong tất cả các trường hợp.

Điểm nổi bật nhất của điều luật là quy định về những yếu tố mà Thẩm phán xét xử phải dựa vào để xác định vấn đề tự nguyện, bao gồm: (i) Khoảng thời gian đã trôi qua từ lúc bị bắt cho đến khi buộc tội đối với bị cáo đã thú tội, nếu sự thú tội được thực hiện sau khi bị bắt và trước khi bị buộc tội; (ii) Bị cáo có biết bản chất của tội phạm mà người này bị buộc tội hoặc bị nghi ngờ tại thời điểm thú tội hay không; (iii) Bị cáo có được thông báo hoặc biết rằng mình không bắt buộc phải đưa ra bất kỳ lời khai nào mà chúng có thể được sử dụng để chống lại chính mình hay không; (iv) Bị cáo có được thông báo trước khi bị thẩm vấn về quyền được trợ giúp bởi người bào chữa hay không; (v) Có phải lúc bị cáo bị thẩm vấn và nhận tội thì vắng mặt người bào chữa hay không.

Tuy nhiên, cần lưu ý sự tồn tại hay thiếu vắng của bất kỳ yếu tố nào ở trên không nhất thiết mang tính quyết định đối với vấn đề tự nguyện của lời nhận tội. Cũng không thể phủ nhận rằng, nếu tất cả quyền tố tụng được đề cập như quyền bào chữa, đặc quyền chống lại sự tự buộc tội đều được bảo đảm mà bị cáo vẫn nhận tội thì tính tự nguyện và theo đó là tính tin cậy của lời nhận tội sẽ rất cao. Một điểm đáng lưu ý là không có nội dung nào của Điều luật ngăn cản việc chấp nhận là chứng cứ đối với bất kỳ lời nhận tội nào được thổ lộ một cách tự nguyện bởi bất kỳ người nào cho bất kỳ ai khi chưa bị hỏi cung hoặc ở bất kỳ thời điểm nào mà người thú tội chưa bị bắt hoặc bị giam giữ. Quy định này gián tiếp cho thấy “sự tự thú” thể hiện tính tự nguyện của lời nhận tội rất cao, bởi vì lúc này người phạm tội chưa chịu áp lực tâm lý từ việc bị phát hiện và bị bắt giữ. Quy định tại Điều 3501 Bộ luật Hoa Kỳ rõ ràng đã tạo cơ sở để Thẩm phán có thể quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận lời nhận tội là chứng cứ trong quá trình xét xử một cách hợp lý, công bằng và khoa học; hạn chế sự tùy tiện trong đánh giá chứng cứ.

Quy định của pháp luật Việt Nam về lời nhận tội:

Trong Chương VI BLTTHS năm 2015 có một số điều luật ghi nhận lời nhận tội với tư cách là một loại nguồn chứng cứ. Điều 95 quy định: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm”. Theo đó, trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú thể hiện rõ nét nhất tính tự nguyện trong lời nhận tội của họ. Tự thú là “việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện”, còn đầu thú là “việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình”.

Trực tiếp hơn, Điều 98 BLTTHS năm 2015 quy định:

“1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.

2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.

Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”.

Lời khai của bị can, bị cáo rõ ràng giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình xác định sự thật của vụ án hình sự, bởi vì hơn ai hết họ là người nắm giữ nhiều thông tin nhất về tội phạm. Khi bị can, bị cáo nhận tội thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng hơn trong việc chứng minh tội phạm. Tuy nhiên, có những trường hợp bị can, bị cáo nhận tội thay cho người khác hoặc nhằm che giấu một tội nặng hơn. Chính vì vậy, khoản 2 Điều 98 BLTTHS năm 2015 đã nhấn mạnh rằng lời nhận tội chỉ được xem là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác trong vụ án. Ngoài ra, để loại trừ tư tưởng “trọng cung hơn trọng chứng” (có thể dẫn đến việc bức cung, nhục hình) và quá đề cao giá trị chứng minh của lời nhận tội, pháp luật Việt Nam còn ngăn cấm việc sử dụng lời nhận tội làm chứng cứ duy nhất để kết tội một người.

So sánh quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về lời nhận tội:

Phân tích quy định của hai quốc gia về lời nhận tội trong vụ án hình sự cho thấy, quy định của Việt Nam còn khá đơn giản và sơ sài. Các yếu tố để đánh giá tính tự nguyện và theo đó là tính tin cậy của lời nhận tội, đặc biệt là trong trường hợp nhận tội sau khi đã bị giữ, bị bắt, bị khởi tố và đưa ra xét xử thì hoàn toàn không được quy định. Tòa án cũng chỉ đơn thuần dựa vào lời nhận tội được phản ánh qua hồ sơ vụ án, đối chiếu với các chứng cứ khác và kết quả xét hỏi tại phiên tòa để quyết định về tội trạng của bị cáo, mà không có cơ sở pháp lý và khoa học vững chắc để đánh giá độ tin cậy của lời nhận tội.

- Chứng cứ bản viết, bản ghi và ảnh:

Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về chứng cứ bản viết, bản ghi và ảnh:

Điều X của FRE quy định 08 quy tắc liên quan đến chứng cứ về nội dung của bản viết, bản ghi và ảnh, cụ thể bao gồm: Các định nghĩa được sử dụng trong điều luật (Quy tắc 1001);  các yêu cầu đối với bản gốc (Quy tắc 1002); sự chấp nhận đối với bản sao (Quy tắc 1003); sự chấp nhận các chứng cứ khác về nội dung (Quy tắc 1004); bản sao của bản ghi từ cơ quan nhà nước để chứng minh nội dung (Quy tắc 1005); bản tóm tắt để chứng minh nội dung (Quy tắc 1006); lời khai để chứng minh nội dung (Quy tắc 1007); chức năng của Tòa án và Bồi thẩm đoàn (liên quan đến các loại chứng cứ này) (Quy tắc 1008).

Để tạo sự thống nhất về nhận thức, Quy tắc 1001 đưa ra các khái niệm cụ thể. Theo đó, một bản viết bao gồm các chữ cái, từ, con số, hoặc những dạng tương tự được ghi chép lại dưới bất kỳ hình thức nào; một bản ghi bao gồm các chữ cái, từ, con số, hoặc những dạng tương tự được ghi lại bằng bất kỳ cách thức nào; một bức ảnh được hiểu là một hình được chụp hoặc dạng tương tự được lưu trữ dưới bất kỳ hình thức nào; một bản gốc của bản viết hoặc bản ghi được hiểu là chính bản viết hoặc bản ghi đó hoặc bất kỳ bản sao được dùng với hiệu lực như nhau bởi người thực hiện hoặc ban hành nó. Đối với thông tin được lưu trữ điện tử, bản gốc được hiểu là bất kỳ bản in ra hoặc dữ liệu xuất có thể đọc được khi nhìn thấy, nếu nó phản ánh chính xác thông tin. Một bản gốc của bức ảnh bao gồm bản âm hoặc bản in từ nó. Một bản sao được hiểu là bản được tạo ra bởi quá trình hoặc kỹ thuật cơ học, chụp ảnh, hóa học, điện tử hoặc tương tự mà mô phỏng chính xác bản gốc.

Quy tắc 1002 quy định bắt buộc phải có bản gốc để chứng minh nội dung của nó trừ trường hợp những quy tắc khác của FRE hoặc một văn bản pháp luật liên bang có quy định khác. Quy tắc 1003 quy định một bản sao được chấp nhận như một bản gốc trừ khi có sự nghi ngờ về tính xác thực của bản gốc hoặc những tình huống làm cho việc chấp nhận bản sao trở nên không công bằng. Đặc biệt, Quy tắc 1004 liệt kê các trường hợp không cần bản gốc và những chứng cứ khác về nội dung của bản viết, ghi âm/ghi hình hoặc hình ảnh sẽ được chấp nhận, đó là: (a) Tất cả bản gốc bị mất hoặc tiêu hủy mà không phải do hành vi không trung thực của người đề xuất; (b) Bản gốc không thể có được bởi bất kỳ quá trình tư pháp nào; (c) Bên mà bản gốc chống lại đã kiểm soát nó, thông qua việc bào chữa hoặc những cách khác, thông báo rằng bản gốc sẽ được sử dụng để chứng minh tại một phiên xét xử hoặc điều trần, nhưng thất bại trong việc đệ trình nó tại phiên xét xử hoặc điều trần; (d) Bản viết, bản ghi, hoặc ảnh không liên quan mật thiết với vấn đề điều chỉnh.

Quy tắc 1005 đặt ra các điều kiện mà người đề xuất có thể sử dụng bản sao để chứng minh nội dung của một bản ghi chính thức hoặc của một tài liệu đã được ghi lại hoặc lưu trữ thành tệp (file) trong một văn phòng công theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này bao gồm: Bản ghi hoặc tài liệu được chấp nhận; bản sao được chứng thực là đúng theo Quy tắc 902(4) hoặc được khai là đúng bởi một nhân chứng đã so sánh nó với bản gốc. Nếu bản sao đó không thể có được bởi sự nỗ lực hợp lý, thì người đề xuất có thể sử dụng chứng cứ khác để chứng minh nội dung.  

Quy tắc 1006 quy định người đề xuất có thể sử dụng một bản tóm tắt, biểu đồ, hoặc sự tính toán để chứng minh nội dung của các bản viết, bản ghi đồ sộ hoặc bức ảnh không thuận tiện cho việc kiểm tra tại Tòa án. Người đề xuất phải chuẩn bị bản gốc hoặc bản sao sẵn sàng cho việc kiểm tra và/hoặc sao chép bởi các bên khác tại một thời gian và địa điểm hợp lý. Quy tắc 1007 cho phép người đề xuất có thể chứng minh nội dung của một bản viết, bản ghi, hoặc hình ảnh bằng lời khai bằng miệng hoặc bằng văn bản của bên bị chứng cứ chống lại. Người đề xuất không cần giải thích cho bản gốc.

Quy định của pháp luật Việt Nam về chứng cứ bản viết, bản ghi và hình ảnh:

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có quy định minh thị về nguồn chứng cứ là bản viết, bản ghi và ảnh, mà chỉ có các quy định về vật chứng, dữ liệu điện tử và các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án. Theo đó, vật chứng là “vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” (Điều 89). Dữ liệu điện tử là “ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử” (khoản 1 Điều 100). Các tài liệu, đồ vật khác là những tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp trong đó chứa đựng những tình tiết liên quan đến vụ án (Điều 104). Đối với vật chứng và dữ liệu điện tử, ngoài khái niệm, BLTTHS năm 2015 còn quy định về các vấn đề như thu thập, bảo quản và xử lý.

Ngoài những quy định trên của BLTTHS năm 2015 thì các Điều 94, 95 BLTTDS năm 2015 cũng ghi nhận một số loại nguồn chứng cứ và việc xác định chứng cứ như: Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực. Mặc dù không được quy định rõ nhưng trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, nếu có các loại chứng cứ này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể căn cứ vào các quy định của BLTTDS năm 2015 để kiểm tra, đánh giá.

So sánh quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam về chứng cứ bản viết, bản ghi và hình ảnh:

Có thể thấy, pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam đều có những quy định (bao gồm khái niệm, tiêu chuẩn được chấp nhận) về một số chứng cứ như vật chứng, dữ liệu điện tử, tài liệu, đồ vật khác. Tuy nhiên, có rất nhiều điểm khác nhau giữa pháp luật của hai quốc gia về vấn đề này. Trước hết, về kỹ thuật lập pháp, FRE không có sự phân biệt giữa chứng cứ là bản viết, bản ghi và ảnh trong vụ án hình sự với vụ án dân sự. Ngược lại, Việt Nam quy định các nguồn chứng cứ này trong cả BLTTHS và BLTTDS nhưng không có bất kỳ một quy định nào mang tính dẫn chiếu để bổ sung cho nhau. Thứ hai, khái niệm và cách phân loại cũng có sự khác biệt giữa hai quốc gia. Thứ ba, quan trọng hơn, quy định của FRE về chứng cứ bản viết, bản ghi và ảnh khoa học mang tính khái quát và toàn diện hơn so với quy định của BLTTHS và BLTTDS Việt Nam; đặc biệt, các trường hợp không cần dùng bản gốc được liệt kê khá rõ ràng. Với một đất nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn, kết hợp một số yếu tố tranh tụng, đề cao chứng cứ viết như Việt Nam, thì những quy định của FRE về chứng cứ bản viết, bản ghi và ảnh thật sự có giá trị tham khảo.

(Còn nữa)

Lê Huỳnh Tấn Duy

Cơ chế thoả thuận nhận tội trong tố tụng hình sự Nhật Bản và khuyến nghị đối với Việt Nam

(Kiemsat.vn) - Bài viết phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản về thoả thuận nhận tội và thực tiễn áp dụng cơ chế này, qua đó đánh giá khả năng áp dụng chế định thoả thuận nhận tội trong tư pháp hình sự Việt Nam và đưa ra một số gợi mở trong quá trình nghiên cứu xây dựng, áp dụng chế định này trong thời gian tới.

Bất cập về thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự

(Kiemsat.vn) - Bài viết đưa ra các quan điểm chưa thống nhất về việc áp dụng Tiểu mục 4.1 Mục 4 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP để tính thời điểm bắt đầu thời hạn kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án; từ đó, đề xuất giải pháp khắc phục.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang