Bảo vệ, bảo đảm quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự trong nền tư pháp công bằng, nghiêm minh
(kiemsat.vn) Pháp luật tố tụng hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ và bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội trong nền tư pháp công bằng, nghiêm minh của Nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, so sánh với quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế về bảo vệ, bảo đảm quyền con người; tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong thời gian tới.
Tiền ảo và những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự
Trao đổi về đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà ở
Đảo nợ có phải là tội phạm không ?
Quyền con người trong tư pháp hình sự nói chung và tố tụng hình sự (TTHS) nói riêng là một chủ đề nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Một số công trình nghiên cứu việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự bằng các nguồn luật độc lập như Hiến pháp, luật hình sự, luật TTHS hoặc kết hợp nhiều nguồn luật với nhau. Các tác giả có xu hướng sử dụng quy định của pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị) và/hoặc pháp luật khu vực (Công ước Châu Âu về quyền con người) như thước đo để so sánh, đánh giá pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người đã được nhắc đến trong phương hướng cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49-NQ/TW trước khi được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (Chương II). Gần đây nhất, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã rất nhiều lần nhấn mạnh việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp đặt ra bởi Nghị quyết này là “xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”; trong đó phải “bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Việc thể chế hóa các nội dung về quyền con người trong Nghị quyết số 27-NQ/TW là điều bắt buộc trong thời gian tới và đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp, trong đó có pháp luật TTHS mà trọng tâm là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021 (gọi tắt là BLTTHS năm 2015).
1. Pháp luật tố tụng hình sự - Một công cụ để bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong nền tư pháp công bằng, nghiêm minh
Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là ba nghĩa vụ của quốc gia được đặt ra bởi các điều ước và luật tập quán quốc tế. Trong đó, “tôn trọng” có nghĩa Nhà nước phải kiềm chế can thiệp vào việc thực hiện các quyền của cá nhân hoặc nhóm người. “Bảo vệ” được hiểu là Nhà nước phải bảo vệ cá nhân khỏi sự lạm quyền của các chủ thể khác, bao gồm phương diện phòng ngừa và khắc phục hậu quả. “Bảo đảm” có nghĩa Nhà nước được yêu cầu phải có hành động tích cực để đảm bảo các quyền con người có thể được thực hiện.
Pháp luật luôn giữ vai trò nhất định đối với việc hoàn thành cả ba nghĩa vụ trên của Nhà nước, tuy nhiên mức độ quan trọng là khác nhau đối với từng nghĩa vụ. Pháp luật chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc để tác động đến nhận thức của người mang quyền lực Nhà nước về giá trị và ý nghĩa của quyền con người. Trong khi đó, để bảo vệ quyền con người thì chắc chắn pháp luật phải có những quy định toàn diện, cụ thể hướng đến mục đích phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm chúng và khắc phục hậu quả. Để hoàn thành nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, Nhà nước cần tạo ra các điều kiện về pháp luật, thiết chế và thủ tục cần thiết để người nắm giữ quyền hưởng thụ đầy đủ các quyền của họ.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, pháp luật TTHS là công cụ chính để bảo vệ và bảo đảm các quyền con người của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội. Hiến pháp tạo ra cơ sở pháp lý tối cao cho việc bảo vệ quyền con người thông qua các quy định nghiêm cấm sự vi phạm các quyền này, xác định rõ một số ít trường hợp ngoại lệ mà các quyền này bị giới hạn.
Tuy nhiên, khi nói đến quyền con người của người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, thì pháp luật TTHS giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi đối tượng điều chỉnh trọng yếu của ngành luật này là các quan hệ không cân bằng về quyền lực giữa người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Bằng các quy phạm mang tính nguyên tắc và các quy phạm cụ thể, luật TTHS góp phần phòng ngừa, xử lý những hành vi xâm phạm quyền con người của người tham gia tố tụng từ phía người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; tạo ra phương thức để người nắm giữ quyền bị xâm phạm được bồi thường, khôi phục danh dự và quyền lợi. Luật TTHS cũng có nhiều quy định tạo điều kiện cần thiết để người tham gia tố tụng hưởng thụ các quyền con người của họ một cách đầy đủ và hiệu quả trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ, bảo đảm quyền con người
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền con người
Bảo vệ quyền con người bao hàm các nội dung như phòng ngừa, xử lý và khắc phục vi phạm. Pháp luật TTHS Việt Nam không có quy định riêng để bảo vệ từng quyền con người mà chỉ có những quy định mang tính bảo vệ chung. Về phòng ngừa các hành vi xâm phạm quyền con người, BLTTHS năm 2015 bắt đầu bằng việc ghi nhận một nguyên tắc cơ bản - Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Điều 8) với nội dung cụ thể như sau: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”.
Nguyên tắc này tác động đến nhận thức của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người của các cá nhân, chủ yếu là người tham gia tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt nguyên tắc còn nhấn mạnh việc kịp thời huỷ bỏ những biện pháp trái pháp luật (biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế, điều tra) hoặc không còn cần thiết, qua đó hạn chế hậu quả gây ra bởi những biện pháp này. Trong khi tên gọi các nguyên tắc tiếp theo từ Điều 9 đến Điều 12 (chỉ trừ Điều 11) đều bắt đầu bằng từ “bảo đảm”, thì tên gọi và nội dung nguyên tắc này thiếu đi cụm từ “bảo đảm”. Trong Hiến pháp năm 2013, các cụm từ “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm” thường được sử dụng gắn liền với nhau trong các quy định mang tính khái quát về quyền con người, quyền công dân. Như vậy, có sự thiếu nhất quán giữa nguyên tắc tại Điều 8 và các nguyên tắc khác liên quan đến quyền con người của BLTTHS năm 2015 và Hiến pháp năm 2013.
Bên cạnh nguyên tắc cơ bản trên, BLTTHS năm 2015 còn có những quy định khác trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ quyền con người của người tham gia tố tụng. Khoản 2 Điều 87 quy định “những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Quy định này nhấn mạnh thuộc tính hợp pháp của chứng cứ, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng luôn phải tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và qua đó gián tiếp bảo vệ các quyền con người của người tham gia tố tụng, nhất là các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở; quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mặt khác, khoản 5 Điều 183 BLTTHS năm 2015 về hỏi cung bị can quy định “Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự”. Để phòng ngừa những hành vi xâm phạm quyền con người của bị can, khoản 6 của Điều luật bổ sung quy định về việc bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh các buổi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan có thẩm quyền điều tra. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 03/2018, ngày 01/02/2018 hướng dẫn thi hành quy định này của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, quy định tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 chưa được thực hiện đầy đủ trên thực tế.
Về xử lý hành vi vi phạm quyền con người, do đối tượng, phạm vi điều chỉnh đặc thù nên pháp luật TTHS chỉ dừng lại ở việc dẫn chiếu đến các ngành luật khác như luật hành chính, luật hình sự (đoạn thứ hai Điều 11, khoản 5 Điều 183 BLTTHS năm 2015). Để khắc phục hậu quả do những vi phạm về quyền con người gây ra, Điều 30 BLTTHS năm 2015 đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS, theo đó, “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra”. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã có những quy định để cụ thể hoá nguyên tắc này. Tuy nhiên, quy định về chủ thể có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bồi thường. Ngoài ra, để xác định lại đúng sự thật của vụ án, đồng thời gián tiếp khôi phục các quyền của người tham gia tố tụng đã bị vi phạm, pháp luật TTHS cũng quy định thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung, huỷ bản án, quyết định để điều tra lại hoặc xét xử lại do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người
Cơ chế bảo đảm quyền con người trong TTHS bao gồm chính sách, pháp luật; thiết chế và phương thức thực hiện (trình tự, thủ tục). Pháp luật TTHS thuộc thành tố thứ nhất của cơ chế bảo đảm quyền con người. Điều 71 BLTTHS năm 2015 đã nhấn mạnh trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải “thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này”. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, tác giả chỉ tập trung phân tích, đánh giá quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm một số quyền đặc trưng của người bị buộc tội trên cơ sở so sánh với quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế.
- Về quyền được xét xử công bằng:
Theo Công ước về các quyền dân sự và chính trị, quyền được xét xử công bằng là một quyền mang tính tối cao mà việc đảm bảo nó cần rất nhiều yếu tố, đặc biệt là sự độc lập, công bằng của Tòa án. Ở Việt Nam, xét xử công bằng là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS (Điều 25 BLTTHS năm 2015) mà không phải là một quyền của người bị buộc tội. Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW đều có nội dung về cải cách tư pháp với trọng tâm là đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Tuy nhiên, Điều 15 BLTTHS năm 2015 vẫn giao trách nhiệm chứng minh tội phạm cho Toà án; Điều 307 của Bộ luật không quy định rõ chủ thể chịu trách nhiệm xét hỏi chính tại phiên toà sơ thẩm nên thực tiễn chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ theo yêu cầu cải cách tư pháp lấy tranh tụng làm đột phá.
Một số quy định của BLTTHS liên quan đến thẩm quyền của Tòa án chưa thực sự phù hợp. Cụ thể đó là Hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt (khoản 4 Điều 153); Tòa án có quyền xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252); Tòa án có quyền xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố (khoản 3 Điều 298). Những quy định này ảnh hưởng đến tính khách quan của Toà án và trực tiếp hoặc gián tiếp không đảm bảo quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
- Về quyền được suy đoán vô tội:
Suy đoán vô tội là một quyền con người được ghi nhận bởi Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 31), đồng thời là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam (Điều 13 BLTTHS năm 2015). Qua thời gian, nguyên tắc này đã được hoàn thiện cả về tên gọi lẫn nội dung và những quy định cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện. Cơ quan lập pháp đã bổ sung một nội dung quan trọng đó là: “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Vấn đề đặt ra là “không đủ và không thể” làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội được hiểu như thế nào? Nội dung này liên quan đến giới hạn chứng minh trong TTHS và do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đánh giá trong từng vụ án cụ thể. Khoản 1 Điều 108 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định mang tính nguyên tắc là “việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự”. Nếu chỉ dừng lại ở những quy định hiện nay của BLTTHS năm 2015 thì rất khó để bảo đảm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhận thức, áp dụng thống nhất, đúng đắn và đầy đủ nội dung này của nguyên tắc suy đoán vô tội và sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị buộc tội. Trong khi đó, khoản 3 Điều 66 Quy chế Toà án hình sự quốc tế đã quy định rõ để kết án bị cáo thì Toà án phải được thuyết phục về tội lỗi của bị cáo vượt qua sự nghi ngờ hợp lý. Ngoài ra, quy định của BLTTHS năm 2015 mới chỉ tập trung vào khía cạnh luật hình thức mà chưa bao hàm trường hợp quy định không rõ ràng về một tội phạm bất kỳ trong luật nội dung. Khoa học luật TTHS cũng chưa nghiên cứu sâu và toàn diện về những loại vi phạm thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến tính hợp pháp của chứng cứ; những trường hợp loại trừ/không chấp nhận chứng cứ, nhất là chứng cứ buộc tội.
- Về quyền bào chữa:
Quy định về bảo đảm quyền bào chữa ngày càng được hoàn thiện qua từng giai đoạn phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số vấn đề cần phải xem xét điều chỉnh vì chưa có sự đồng bộ, có nhiều quan điểm khác nhau hoặc chưa tương đồng với tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ nhất, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền bào chữa, nhờ người bào chữa nhưng lại không phải là người bị buộc tội (điểm g khoản 1 Điều 58, điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015). Tư cách tham gia tố tụng của người này chỉ tồn tại trong 12 giờ kể từ khi bị giữ, trong khi đó thủ tục đăng ký bào chữa có thể đến 24 giờ mới hoàn thành. Điều này cho thấy, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chỉ có quyền tự bào chữa, còn nhờ người bào chữa là không thể thực hiện được.
Thứ hai, việc gặp riêng giữa người bào chữa với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam chưa được đảm bảo tính bí mật. Người giám sát trong cơ sở giam giữ hoàn toàn có thể nghe được nội dung cuộc trao đổi giữa người bào chữa và thân chủ của họ. Điều này trái với tiêu chuẩn quốc tế được ghi nhận tại nguyên tắc thứ 8 trong Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư (Basic Principles on the Role of Lawyers).
Thứ ba, pháp luật TTHS hoàn toàn chưa quy định về cách thức giải quyết đối với trường hợp vì lý do khách quan mà người bào chữa không có đủ thời gian để chuẩn bị tốt cho việc bào chữa. Điều này chưa tương thích với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 14 Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
- Về quyền được xét xử kịp thời:
Quyền được xét xử không bị trì hoãn bất hợp lý hay quyền được xét xử nhanh chóng là một trong những bảo đảm tố tụng đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp luật nhân quyền quốc tế và khu vực, xuất phát từ tư tưởng công lý bị chậm trễ là công lý bị khước từ (justice delayed is justice denied). Ở Việt Nam, quyền được xét xử kịp thời của người bị buộc tội lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 31) và sau đó được thể chế hoá thành một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS (Điều 25 BLTTHS năm 2015). So sánh với Công ước về các quyền dân sự và chính trị, pháp luật Châu Âu và một số quốc gia cho thấy, quy định hiện nay của Việt Nam về nguyên tắc xét xử kịp thời còn có những hạn chế nhất định về tên gọi, vị trí, nội dung, các quy định cụ thể hoá và bảo đảm thực hiện. Tên gọi nguyên tắc có sự sáng tạo nhưng chưa rõ nghĩa. Vị trí nguyên tắc chưa hợp lý khi đặt trước nguyên tắc xét xử công bằng, công khai. Nội dung nguyên tắc còn khá đơn giản và bị giới hạn trong giai đoạn xét xử. Vi phạm về thời hạn tố tụng có phải là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không và cách giải quyết như thế nào hiện nay chưa được quy định.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong nền tư pháp công bằng, văn minh
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền con người
Thứ nhất, để đảm bảo tính toàn diện, nhất quán giữa hệ thống các nguyên tắc liên quan đến quyền con người trong BLTTHS năm 2015 và Hiến pháp năm 2013, tác giả đề xuất nên bổ sung cụm từ “bảo đảm” vào tên gọi và nội dung Điều 8 BLTTHS năm 2015, cụ thể:
“Điều 8. Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”.
Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền cần giải quyết triệt để vấn đề ghi âm, ghi hình có âm thanh trong TTHS; cần xác định chính xác nguyên nhân cốt lõi dẫn đến việc không triển khai thực hiện được trên thực tế, từ đó đề ra giải pháp khắc phục.
Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, trong đó tập trung vào các quy định liên quan đến cơ quan giải quyết bồi thường để loại trừ tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thiệt hại do hoạt động TTHS gây ra.
3.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người
Thứ nhất, về quyền được xét xử công bằng:
Trước hết, cần loại trừ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015. Trong TTHS, Toà án chỉ thực hiện những quyền hạn thuộc nội hàm của chức năng xét xử. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội mà Viện kiểm sát giữ vai trò chính. Cần sửa đổi Điều 307 BLTTHS năm 2015 theo hướng xác định Kiểm sát viên và người bào chữa là chủ thể chính trong phần xét hỏi. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không nên tiếp tục duy trì do trái với chức năng xét xử của Tòa án, ít khi áp dụng trong thực tế. Thẩm quyền thu thập chứng cứ của Tòa án liên quan đến vấn đề hình sự cũng cần phải được xóa bỏ để đảm bảo tính khách quan khi đánh giá chứng cứ. Đối với phần dân sự trong vụ án hình sự, nếu đương sự, đặc biệt là những người yếu thế, có yêu cầu thì Tòa án sẽ hỗ trợ họ thu thập chứng cứ. Thẩm quyền xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố cũng cần phải xem xét lại vì quy định hiện nay trái với chức năng xét xử của Tòa án, vi phạm nguyên tắc tranh tụng và kéo dài quá trình tố tụng.
Thứ hai, về quyền được suy đoán vô tội:
Khoa học luật TTHS Việt Nam cần có những nghiên cứu sâu và toàn diện hơn về quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội, nhất là tiêu chuẩn chứng minh vượt qua sự nghi ngờ hợp lý. Nghiên cứu ban hành án lệ về luật TTHS, trong đó có trường hợp áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng cần được tập huấn thường xuyên để nắm vững nội dung của quyền này, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ có trách nhiệm kiềm chế khỏi việc gây ảnh hưởng đến kết quả xét xử, ví dụ không tuyên bố công khai khẳng định tội lỗi của bị cáo. Các phương tiện truyền thông nên tránh đưa ra thông tin gây tác động xấu đến sự suy đoán vô tội. Thời hạn bị giam giữ trước khi xét xử không bao giờ được xem là một dấu hiệu xác định tội lỗi và mức độ của nó.
Thứ ba, về quyền bào chữa:
Cơ quan lập pháp cần phải xác định lại người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có phải là người bị buộc tội không. Nếu xem họ là người bị buộc tội thì cần bổ sung vào khái niệm tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 và nghiên cứu cơ chế để người bào chữa có thể tham gia sớm nhằm kịp thời bảo vệ họ. Ngược lại, nếu không xem người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người bị buộc tội thì cần tách Điều 58 BLTTHS năm 2015 hiện nay thành hai điều luật và loại bỏ quyền bào chữa của họ.
Cần bổ sung quy định về quyền gặp riêng của người bào chữa với người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam. Theo đó, cuộc trao đổi, tư vấn giữa họ có thể được quan sát để kịp thời xử lý những tình huống phát sinh nhưng nội dung trao đổi tuyệt đối không thể nghe được. Điều này đã được ghi nhận rất rõ ràng bởi nguyên tắc thứ 8 trong Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư.
Ngoài ra, cần bổ sung vào khoản 1 Điều 297 BLTTHS năm 2015 về căn cứ hoãn phiên tòa, đó là trường hợp cần thêm thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa theo yêu cầu hợp lý của bị can, bị cáo hoặc người bào chữa.
Thứ tư, về quyền được xét xử kịp thời:
Tên gọi, vị trí và nội dung nguyên tắc này tại Điều 25 BLTTHS năm 2015 cần được điều chỉnh lại, cụ thể như sau:
“Điều 25. Tòa án xét xử công bằng, công khai, không bị trì hoãn bất hợp lý
Tòa án xét xử bảo đảm công bằng.
Tòa án xét xử công khai, mọi người… (giữ nguyên)
Thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải được bảo đảm theo đúng quy định của Bộ luật này, không bị trì hoãn bất hợp lý”.
Cơ quan lập pháp cũng cần nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về cách thức xử lý đối với những trường hợp vi phạm quy định về thời hạn tố tụng, “xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án”. Theo tác giả, nếu xét về ngữ nghĩa thì vi phạm thời hạn không thuộc nội hàm của “vi phạm thủ tục tố tụng” mặc dù hậu quả có thể tương tự nhau trong một số trường hợp. Do đó, giải pháp trước mắt để phòng ngừa, xử lý vi phạm về thời hạn tố tụng là sử dụng các quy định riêng của từng ngành về xử lý trách nhiệm của người tiến hành tố tụng. Về lâu dài cần nghiên cứu học tập kinh nghiệm của các quốc gia để “cấy ghép” những quy định về cách giải quyết khi quyền được xét xử trong thời gian hợp lý bị vi phạm nghiêm trọng; qua đó giúp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lê Huỳnh Tấn Duy
Một số vấn đề lý luận về lấy con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước ở Việt Nam
-
1Tiền ảo và những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự
-
2Trao đổi về đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà ở
-
3Đảo nợ có phải là tội phạm không ?
-
4Một số vấn đề lý luận về lấy con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước ở Việt Nam
-
5Bảo vệ, bảo đảm quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự trong nền tư pháp công bằng, nghiêm minh
Bài viết chưa có bình luận nào.