Tiền ảo và những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự
(kiemsat.vn) Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ 4.0 dẫn đến thị trường giao dịch tiền ảo trên thế giới ngày càng sôi động. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực pháp luật Việt Nam chưa điều chỉnh vấn đề này, đặc biệt là khi tiền ảo chưa được công nhận là tài sản đã đặt ra những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự.
Hoàn thiện pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Bàn về quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Đồng Tháp: Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát và phối hợp liên ngành tại địa phương
1. Nhận diện tiền ảo
Khái niệm:
Trên thế giới hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất về “tiền ảo”, hay “tiền mã hóa” cả về thuật ngữ và nội hàm. Theo định nghĩa của Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO), tiền ảo (virtual currency) là loại tài sản ảo có tính chất tiền tệ, tức là có thể được sử dụng làm phương tiện trao đổi hay một tài sản có giá trị trong một môi trường cụ thể như trong trò chơi điện tử hay trong một trò chơi mô phỏng giao dịch tài chính.
Chỉ thị số 2108/843 ngày 30/5/2018 của Liên minh Châu Âu (EU) liên quan đến phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố đã định nghĩa tiền ảo là một biểu hiện của giá trị dưới dạng số. Loại tiền này không được một ngân hàng trung ương hay một cơ quan nhà nước nào phát hành hay bảo đảm, không gắn liền với một đồng tiền pháp định nào và không có địa vị pháp lý của tiền tệ, nhưng được chấp nhận thanh toán bởi cá nhân hoặc pháp nhân như một phương tiện trao đổi và có thể được chuyển đổi, lưu trữ hay giao dịch bằng phương thức điện tử.
Lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính (FATF) cho rằng, tiền ảo là biểu hiện của giá trị dưới dạng số có thể có trong giao dịch kỹ thuật số và có các chức năng như: (i) Một phương tiện trao đổi; và/hoặc (ii) Một đơn vị kế toán; và/hoặc (iii) Một hình thức lưu trữ giá trị, nhưng không phải là tiền pháp định ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào phát hành hoặc bảo đảm. Các chức năng trên chỉ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận trong cộng đồng người sử dụng của loại tiền ảo đó.
Nhìn chung, dưới góc độ công nghệ, tiền ảo có thể được coi là một tập con của tài sản số, là những thông tin tồn tại dưới dạng các đoạn mã máy tính trong một hệ thống thông tin chuyên biệt được thừa nhận và sử dụng bởi một cộng đồng nhất định nhằm xác nhận quyền hay lợi ích của một chủ thể. Mặc dù hay được đồng nhất với nhau, nhưng tiền mã hóa và tiền ảo theo quan điểm của tác giả là khác nhau, tiền mã hóa chỉ là một tập hợp con của tiền ảo, bởi vì ngoài tiền mã hóa thì tiền ảo vẫn còn những tập hợp con khác. Thực tế hiện nay, đa số các quốc gia căn cứ vào đặc điểm công nghệ phát hành để phân chia tiền ảo thành hai nhóm sau đây: (i) Tiền mã hóa hay còn được gọi là tiền thuật toán (Crypto currency), được tạo ra qua việc áp dụng công nghệ sổ cái phân tán mà phổ biến hiện nay là công nghệ blockchain kết hợp kỹ thuật mã hóa; và (ii) Tiền ảo thông thường là tiền ảo được tạo ra và quản lý bằng phần mềm, công nghệ máy tính có thể được viết bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân bằng những ngôn ngữ lập trình hiện có để sử dụng chúng phục vụ cho mục đích của người sáng lập (ví dụ KNB trong game do VNG phát hành…).
Xu hướng pháp luật trên thế giới về tiền ảo:
Vì tính chất quan trọng của tiền ảo nên việc điều chỉnh tiền ảo được các nước trên thế giới rất quan tâm. Tuy nhiên, quan điểm và cách tiếp cận của các quốc gia trên thế giới về xây dựng khung pháp lý về tiền ảo hiện nay không giống nhau. Cách tiếp cận và ghi nhận vị trí pháp lý về tiền ảo nói chung, tiền mã hoá nói riêng của các quốc gia có thể chia thành 04 nhóm sau:
(1) Cấm lưu hành trên diện rộng: Pháp luật của những quốc gia theo quan điểm này cấm hoàn toàn các tổ chức, cá nhân giao dịch, mua bán, sử dụng tiền mã hoá để thanh toán hoặc lưu thông dưới bất cứ hình thức nào. Tính tới thời điểm hiện tại, có 09 quốc gia đã ra lệnh cấm giao dịch bitcoin và các loại tiền ảo khác, bao gồm: Algeria, Bangladesh, Bolivia, Dominican Republic, Ghana, Nepal, Macedonia, Quatar, Vanuatu. Do đó, tại các quốc gia này không đặt ra vấn đề xây dựng khung pháp lý cho tiền mã hoá.
(2) Cấm sử dụng, lưu thông tiền mã hoá trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng: Việc không thừa nhận tiền mã hoá là phương tiện thanh toán hợp pháp do lo ngại ảnh hưởng đến chính sách tài chính - tiền tệ của quốc gia. Ví dụ điển hình có thể kể đến là Trung Quốc. Trung Quốc cho rằng vì tiền ảo không có tư cách pháp lý như tiền tệ hợp pháp, nên không thể được lưu hành dưới dạng tiền tệ trên thị trường. Do vậy, các hoạt động liên quan đến tiền ảo như phát hành token để gây quỹ cho doanh nghiệp (ITO - Initial Token Offerings), giao dịch các công cụ phái sinh tiền ảo, trao đổi tiền ảo (thậm chí trao đổi tiền ảo ở nước ngoài cho người dân ở Trung Quốc qua internet), giao dịch mua bán tiền ảo… là hoạt động trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, bất kỳ người nào thực hiện các hoạt động có liên quan đến tiền ảo sẽ bị truy tố trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nhiều Tòa án ở Trung Quốc trong nhiều năm xác định quyền sở hữu bitcoin vẫn là tài sản hợp pháp, tiền ảo là tài sản hợp pháp và được bảo vệ bởi quy định của pháp luật.
(3) Cho phép sử dụng, giao dịch tiền ảo: Một số nước đã và đang thực hiện nghiên cứu, điều trần về bản chất, vai trò, khung pháp lý đối với các loại hình tiền ảo, đồng thời đưa ra các cảnh báo đầu tư, kinh doanh tiền ảo. Mỹ thừa nhận sự tồn tại của tiền ảo là tất yếu, thậm chí sự phát triển vị thế tiền ảo trong các quan hệ kinh tế rất mạnh mẽ. Kết quả là chính quyền nước này bước đầu có những quy định ở cấp liên bang điều chỉnh các giao dịch về tiền ảo, cụ thể là sự thừa nhận tiền ảo là một loại tài sản và buộc các chủ thể tiến hành giao dịch tiền ảo phải đóng thuế khi thuộc các trường hợp luật định:
- Coi tiền ảo như là một trong các loại hàng hóa: Ở Indonesia, tiền ảo được công nhận là hàng hóa bởi Quy định số 99/2018 của Bộ trưởng Bộ Thương mại Cộng hòa Indonesia liên quan đến các vấn đề chung chính sách thực hiện giao dịch tiền ảo và quy định về hàng hóa. Cơ quan quản lý coi các giao dịch tương lai liên quan đến các quy định kỹ thuật đối với việc triển khai giao dịch thực tế các tài sản tiền ảo trên sàn giao dịch tương lai, tài sản tiền ảo là hàng hóa có thể được sử dụng làm đối tượng của hợp đồng tương lai được giao dịch. Hay như tại Mỹ, Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai (Commodity Futures Trading Commission - CFTC) đã phân loại bitcoin là một loại hàng hóa vào tháng 9/2015 và cho phép các chứng khoán phái sinh tiền ảo được giao dịch công khai. Chính vì vậy, Sở thuế vụ Mỹ (Internal Revenue Service - IRS) đã đánh thuế bitcoin như một tài sản. Theo đó, bất kỳ giao dịch nào sử dụng bitcoin sẽ bị đánh thuế dựa theo quy tắc tính thuế áp dụng với tài sản.
- Đối xử tương tự cổ phiếu đối với một số loại tiền ảo: Ủy ban dịch vụ tài chính Hàn Quốc đã đưa ra thông báo lập luận rằng tài sản mã hóa nói chung, tiền ảo nói riêng nên được hưởng sự bảo vệ giống như chứng khoán thông thường nếu chúng đáp ứng các định nghĩa tương tự mà Hàn Quốc áp dụng cho các chứng khoán khác.
- Coi tiền ảo là một phương thức thanh toán: Trong vụ Li v. Barber , 2022 ONSC 1176 ( Barber ), Tòa án Công lý cấp cao Ontario, Canada nhận thấy rằng các khoản tiền “dù ở dạng tiền tệ hay tiền điện tử hiện đều thuộc quyền sở hữu, quyền lực và kiểm soát hợp pháp của các bị cáo”.
(4) Trung lập, chưa có động thái rõ ràng về tiền ảo: Việt Nam chính là một trong những quốc gia đại diện cho xu hướng này. Cho đến thời điểm hiện tại, người dân vẫn thực hiện các giao dịch về tiền ảo trên các sàn giao dịch tiền điện tử mà không phát sinh nghĩa vụ với Nhà nước như nộp thuế đối với khoản thu nhập nhận được từ việc trao đổi, mua bán tiền ảo, có nhiều vụ việc liên quan đến tiền ảo.
2. Tiền ảo và những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về tiền ảo:
Qua rà soát các văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật thương mại năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019; Luật chứng khoán năm 2019; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 và 2016; Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 và 2020; Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007, sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014, 2016; Luật phá sản năm 2014... thì chưa có quy định phân loại và định danh một cách dứt khoát, rõ ràng các loại tiền ảo, trong đó bao gồm việc chưa xác định được tiền ảo thuộc loại hình nào trong các khái niệm pháp lý như: Chứng khoán (khoản 1 Điều 4 Luật chứng khoán năm 2019), hàng hóa (khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005), tài sản (khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015). Tuy nhiên, Việt Nam có quan điểm rõ ràng về việc tiền ảo không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Theo đó, pháp luật quy định việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán bị xử phạt vi phạm hành chính và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo. Đây có thể coi là sự nghiêm túc nhìn nhận đầu tiên của Việt Nam đối với tài sản ảo, tiền ảo. Đến ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 942/2021/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó có nội dung: Giao cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng tiền ảo dựa trên công nghệ chuỗi khối (blockchain) trong giai đoạn 2021-2023. Ngày 23/2/2024, Việt Nam ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt nhằm đưa Việt Nam ra khỏi danh sách xám của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Tại Kế hoạch này, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước đánh giá rủi ro về rửa tiền trong kinh doanh casino, trò chơi có thưởng và tài sản ảo, thời hạn hoàn thành vào tháng 9/2024. Bộ Tài chính được giao xây dựng khung pháp lý để cấm hoặc điều chỉnh tài sản ảo và các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản này, hoàn thành trong tháng 5/2025.
Có thể thấy rằng tài sản ảo nói chung, tiền ảo nói riêng đang không được pháp luật công nhận là tài sản và đang nằm trong “khoảng trống pháp lý” khi không bị pháp luật cấm nhưng cũng không được pháp luật thừa nhận. Việc này gây ra hạn chế đối với các chủ thể tham gia các quan hệ liên quan đến tài sản ảo/tiền ảo, bởi Việt Nam được biết đến là một trong những quốc gia nắm giữ tỉ lệ tài sản tiền ảo cao. Việc Việt Nam không có tài liệu tham khảo nào về tiền ảo trong các thủ tục tố tụng, không có tuyên bố tư pháp rõ ràng dẫn đến những khó khăn nhất định không chỉ trong quá trình giải quyết các vụ việc tại cơ quan có thẩm quyền, mà còn cả trong việc thi hành các bản án, quyết định.
2.2. Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị
Một là, vướng mắc khi không quy định tiền ảo là tài sản:
Việc tiền ảo không được coi là tài sản dẫn đến những vướng mắc trong các quan hệ dân sự như sở hữu, thừa kế, hợp đồng hay bồi thường thiệt hại liên quan đến tiền ảo, do không có cơ chế để giải quyết một cách phù hợp. Chẳng hạn, khi ví điện tử của một chủ thể bị xâm nhập và bị chiếm đoạt một số lượng tiền ảo nhất định thì liệu người này có dùng một trong các phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 để đòi lại số tiền ảo đó hay không và nếu có thì làm sao để đảm bảo người này có thể thu hồi lại được số tiền ảo này trong quá trình thi hành bản án, quyết định? Hoặc trường hợp giải quyết tranh chấp, thi hành án nếu có đối với các bên mua bán tiền ảo nhưng không thực hiện nghĩa vụ giao tài sản, đối với trường hợp người yêu cầu phân chia di sản thừa kế là tiền ảo, hoặc đối với trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại khi một người có hành vi phá hỏng ví điện tử của mình làm cho việc đăng nhập không thể thực hiện được…
Việc không quy định tiền ảo là một loại tài sản dẫn đến các khó khăn nhất định cho công tác thi hành án như: Không có các thủ tục xác minh đặc biệt đối với trường hợp nghi ngờ người phải thi hành án có tiền ảo, cũng như không có cơ chế để xác minh, căn cứ để cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền ảo mà người phải thi hành án đang nắm giữ.
Hai là, xác minh điều kiện thi hành án khi người phải thi hành án có hoạt động liên quan đến tiền ảo:
Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS năm 2008) quy định: “Có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án”. Như vậy, để hoạt động THADS đạt hiệu quả thì cần có các thông tin của người phải thi hành án và tài sản của người phải thi hành án; tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền ảo gây khó khăn cho người yêu cầu thi hành án, cơ quan có thẩm quyền trong việc định vị, xác nhận, bán tiền ảo của người phải thi hành án, bởi các lý do sau đây:
(1) Tiền ảo có tính ẩn danh cao: Phải thừa nhận lý do khiến tiền ảo hấp dẫn nhiều người là vì tiền ảo đáp ứng mong muốn giữ bí mật lợi ích tài chính và chỉ gắn với địa chỉ ví. Mặc dù ví giao dịch của chủ sở hữu trên sàn giao dịch tiền ảo được đăng ký và có danh tính, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể yêu cầu các chủ sàn cung cấp thông tin liên quan đến chủ tài khoản, số dư ví; tuy nhiên, không phải mọi nhà đầu tư đều lưu trữ tiền ảo trên các ví mở tại sàn giao dịch, mà họ có thể lưu trữ chúng trong “ví lạnh”. Trong những trường hợp này, chỉ người nào nắm được ví, mật khẩu thì mới có thể định đoạt được số tiền ảo được lưu trữ. Do đó, việc xác định tài sản của người phải thi hành án là điều khó thực thi đối với người được thi hành án, cơ quan THADS.
Việt Nam chưa có đủ các cơ chế phòng, chống rửa tiền, bao gồm phòng, chống rửa tiền qua giao dịch tiền ảo, tài sản ảo (VA,VASP). Nếu pháp luật Việt Nam trong tương lai quy định theo hướng cho phép các giao dịch về tiền ảo, thì với việc có thể liên kết ví điện tử với danh tính thực của chủ sở hữu và theo dõi các giao dịch đến và đi từ các ví điện tử đó, cần quy định giao dịch tiền mã hóa phải được thực hiện qua sàn giao dịch có đăng ký và chủ thể giao dịch phải công khai danh tính. Quy định này có thể định danh được chủ sở hữu của đồng tiền mã hóa, cho phép thành lập và kiểm soát các sàn giao dịch tiền mã hóa, giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan về chuyển tiền quốc tế, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Đồng thời, cần quy định theo hướng cấm tuyệt đối các hoạt động liên quan đến tiền ảo ẩn danh. Trong tương lai, có thể áp dụng các biện pháp hành chính hoặc hình sự đối với các chủ thể thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo không đăng ký. Điều này không chỉ góp phần minh bạch hóa thị trường, sớm đưa Việt Nam ra khỏi danh sách theo dõi tăng cường, mà còn giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác minh tài sản của người phải thi hành án.
(2) Khó xác định tổng số tài sản mà người phải thi hành án đang nắm giữ: Có hai vấn đề có thể ảnh hưởng đến việc xác định số tài sản mà người phải thi hành án đang nắm giữ:
- Thói quen dùng tiền mặt của người dân. Thực tế là rất nhiều nhà đầu tư ở Việt Nam thường dùng tiền mặt để mua bán tiền ảo nói chung, USDT nói riêng. Theo đó, nhà đầu tư liên hệ với các nhà môi giới trên các kênh (các hội nhóm) mạng xã hội như Telegram, Facebook để hỏi mua USDT và thanh toán bằng tiền mặt tại địa chỉ chỉ định. Với việc tiếp xúc trực tiếp để mua bán, trao đổi, nhà đầu tư có thể yêu cầu người bán chuyển vào địa chỉ ví mình yêu cầu (không nhất thiết phải là địa chỉ ví chính chủ) mà không lo sợ bị lừa đảo; nhà môi giới cũng rất ưa thích việc được thanh toán bằng tiền mặt, bởi họ có thể tránh các rà soát của ngân hàng, tránh nguồn tiền “bẩn” dẫn đến tài khoản của họ tại ngân hàng bị phong tỏa theo quy định của pháp luật;
- Trong trường hợp nhà đầu tư dùng hình thức chuyển khoản, thì thậm chí khoản đầu tư ban đầu sẽ hiển thị trên bảng sao kê tài khoản ngân hàng của người phải thi hành án, các khoản đầu tư, trao đổi, mua bán sau đó sẽ khó có khả năng hiển thị trong tài khoản ngân hàng của người này, nếu người này có ý định tẩu tán tài sản.
Vì vậy, cần đẩy mạnh các biện pháp nhằm hạn chế việc lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế, chứng minh về nguồn gốc đối với các khoản tiền có giá trị nhất định; cùng với đó, cần nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc THADS, hành chính, kỹ năng xác minh tài sản của Chấp hành viên, cán bộ tham gia vào công tác thi hành án để có thể phát hiện kịp thời các giao dịch tài chính của người phải thi hành án có khả năng là để đầu tư, mua bán tiền ảo; từ đó thu thập đầy đủ thông tin về tài sản của người phải thi hành án.
(3) Quy định về xử lý hành vi cung cấp thông tin không đầy đủ, không chính xác còn chưa hiệu quả:
Theo khoản 2, 4 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; THADS; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thì hành vi không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng bị phạt tiền từ 01 đến 03 triệu đồng; hành vi không cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng hoặc cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án bị phạt từ 05 đến 10 triệu đồng. Có thể thấy rằng, mức phạt này còn quá thấp và không đủ sức răn đe buộc chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia, người phải thi hành án buộc phải khai báo trong các vụ việc THADS và phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm trọng nếu không khai báo hoặc cố tình khai báo sai. Ví dụ, ở Canada, hành vi không thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin của người được thi hành án bị coi là tội phạm.
Vì vậy, Việt Nam cần cân nhắc tham khảo quy định của các nước về hậu quả của việc không cung cấp thông tin đầy đủ; theo đó, thông tin phải được nêu cụ thể trên mẫu kê khai tài sản, bao gồm các biện pháp bắt buộc đối với các tài sản khác, hoặc tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc để quy định rõ ràng về nghĩa vụ tiết lộ đầy đủ và thẳng thắn. Ngoài ra, cũng cần bổ sung quy định Tòa án/cơ quan THADS có quyền yêu cầu người phải thi hành án/bị cáo phải cung cấp số nhận dạng ví tiền ảo và khóa truy cập điện tử cho người có thẩm quyền thực hiện các giao dịch và hoàn tất việc chuyển từ tiền ảo sang tiền mặt gửi vào tài khoản ngân hàng theo quy định của Luật THADS năm 2008.
(4) Nghĩa vụ cung cấp thông tin của các nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo (Digital asset service provider - DASP) chưa rõ ràng:
Nếu người phải thi hành án giữ tiền ảo trong một sàn giao dịch tập trung được quản lý yêu cầu tuân thủ KYC (Know your customers) - lưu giữ các tài liệu chứng minh danh tính của khách hàng, thì sàn giao dịch điện tử nắm giữ tài sản đó chỉ phải tuân theo lệnh tiết lộ của Tòa án và các quy định thông thường của quốc gia về nghĩa vụ tiết lộ. Vì vậy, cần thiết lập quy định để tổ chức có quyền kiểm soát hoặc chịu trách nhiệm đối với tiền ảo phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ việc, thi hành án. Bởi lẽ, vận dụng quy định tại Điều 198 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 20 Luật THADS năm 2008, Thẩm phán/Chấp hành viên được phân công có thể yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo tiết lộ liệu rằng có nắm giữ tài sản ảo của người phải thi hành án hay không. Tuy nhiên, vấn đề là phải làm thế nào để quy trình này ít phức tạp và ít tốn thời gian nhất có thể, nhằm đảm bảo kịp thời hạn chế việc người phải thi hành án có thời gian để tẩu tán tiền ảo.
Ba là, về vấn đề phong tỏa tài khoản tiền ảo:
Hiện nay, Việt Nam chưa có quy định tương thích về tiền ảo, do đó các biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế theo Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 66, 71 Luật THADS năm 2008 không thể áp dụng trong hoạt động giải quyết vụ việc, thi hành bản án, quyết định. Bởi lẽ:
(1) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định 02 biện pháp khẩn cấp tạm thời Tòa án có thể áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại khoản 10, 11 Điều 114 là “phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ”, “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”. Như vậy, Tòa án không thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm mục đích phong tỏa tài khoản tiền ảo của một bên trong vụ việc, bởi quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ cho phép yêu cầu phong tỏa tài khoản mở tại ngân hàng/tổ chức tín dụng khác/kho bạc nhà nước, mà không có yêu cầu phong tỏa tài khoản tại sàn giao dịch tiền ảo; đồng thời, cũng không thể phong tỏa tiền ảo tại nơi gửi giữ bởi tiền ảo hiện không được quy định là tài sản theo pháp luật Việt Nam.
(2) Mặc dù Điều 66 Luật THADS năm 2008 quy định một trong những biện pháp bảo đảm có thể được áp dụng là “phong tỏa tài khoản”, nhưng trên thực tế, cơ quan THADS khó có thể xác minh người phải thi hành án có tài khoản tiền ảo hay không để quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản gửi tới sàn giao dịch tiền ảo nơi người phải thi hành án có tài khoản; nếu có cũng không đảm bảo khả năng thực thi, bởi quy chế hoạt động của sàn giao dịch tiền ảo luôn nhằm mục đích vừa có thể đảm bảo lợi ích của người dùng, vừa đảm bảo hạn chế tối đa việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Do vậy, về việc phong tỏa tài khoản (frozen user accounts), các sàn này đều quy định một trong các trường hợp tài khoản có thể bị phong tỏa là theo lệnh/quyết định của Tòa án có thẩm quyền, mà không phải là các cơ quan có thẩm quyền nói chung.
Ngoài ra, tiền mã hóa được lưu trữ trên một hệ thống blockchain phi tập trung, tức nhà điều hành sàn giao dịch có thể không đặt tại Việt Nam, mà đặt tại các “thiên đường thuế”, các quốc gia thân thiện với tiền ảo; đồng thời, có quy định bảo mật thông tin cho các chủ sàn. Như đã phân tích ở trên, cơ quan THADS trong quá trình thi hành án có thể đưa ra các quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản. Tuy nhiên, sẽ là không khả thi đối với các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số nằm ngoài biên giới quốc gia. Tòa án/cơ quan THADS muốn gửi thông báo, hoặc quyết định thì cần nắm được địa chỉ bưu chính hợp lệ và thông tin liên hệ có hiệu lực của nền tảng, nhưng thực tế rất khó xác định địa chỉ bưu chính để gửi thông báo.
(3) Các biện pháp bảo đảm nhằm hạn chế người phải thi hành án tẩu tán tài sản không đạt hiệu quả nếu người phải thi hành án tự quản lý tiền ảo (tức là trong “ví không giam giữ”, nơi có khóa riêng tư) mà chỉ có họ mới biết. Theo đó, không có bên thứ ba nào (chẳng hạn sàn giao dịch tiền điện tử tập trung) có quyền truy cập vào tài khoản của một người, ngoại trừ trường hợp chủ sở hữu hoặc người mà chủ sở hữu chia sẻ mã khóa. Như vậy, chỉ duy nhất người phải thi hành án có quyền truy cập vào tài khoản tiền mã hóa bằng khóa mã hóa (encrypted key) của mình - tức người phải thi hành án không lưu trữ tiền ảo trong tài khoản trên các sàn giao dịch tiền ảo mà giữ trong ví trực tuyến, ứng dụng di động, ví cứng/ví mềm (không có bên thứ ba là nhà cung ứng dịch vụ tài sản ảo nắm giữ tiền ảo của người phải thi hành án). Vì vậy, đa phần người phải thi hành án sẽ không tự nguyện giao khóa mã hóa của mình, nên cơ quan Thi hành án phải tiến hành các thủ tục bổ sung để người phải thi hành án giao khóa mã hóa này. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa cơ quan THADS, Công an, Tòa án để có thể cưỡng chế người phải thi hành án giao các khóa mã hóa này.
Bốn là, sự biến động nhanh chóng về giá trị của tiền ảo:
Công tác THADS nói chung, thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trong giai đoạn THADS nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, đặc biệt là việc áp dụng các biện pháp truy tìm, chứng minh nguồn gốc tài sản; áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, tiền ảo vốn có sự biến động rất nhanh chóng về giá trị (cuối năm 2022 giá trị đồng bitcoin giảm đáng kinh ngạc, giảm 65% tại thời điểm thực hiện bất kỳ giao dịch nào so với giá trị năm 2021).
Trong khi đó, thời gian giải quyết một vụ án hình sự, vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật là tương đối dài, giá trị của tiền ảo sau khi giải quyết vụ việc có còn giữ nguyên như khi áp dụng lệnh phong tỏa hay không lại là một vấn đề khác. Khi chưa có cơ chế để có thể xác minh tài sản là tiền ảo, việc thay đổi hiện trạng đối với tiền ảo là vô cùng dễ dàng, thì việc giải quyết kịp thời vụ án hình sự, vụ việc dân sự để thu hồi tài sản là vấn đề được đặt ra. Theo tác giả, cần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định giá trị tài sản; phân loại bộ phận chịu trách nhiệm thi hành án, hợp tác với các cơ quan chức năng khác và đẩy mạnh công tác chống tội phạm, vi phạm về tài chính; xây dựng cơ chế đặc biệt để cơ quan có thẩm quyền có thể quy đổi giá trị tiền ảo sang tiền pháp định và gửi tiết kiệm khoản phải thi hành án này theo kỳ hạn pháp luật quy định để đảm bảo việc thi hành án.
Năm là, về việc định giá tài sản ảo:
Theo Điều 98 Luật THADS năm 2008, có 03 hình thức định giá, đó là: Các đương sự thỏa thuận; do tổ chức có chức năng thẩm định giá tiến hành; do Chấp hành viên xác định giá. Bộ Tài chính đã ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá, cụ thể gồm 13 tiêu chuẩn về thẩm định giá được sử dụng trong hoạt động thẩm định giá, tùy từng loại tài sản khác nhau mà có những tiêu chuẩn và phương pháp tiến hành thẩm định giá khác nhau. Tuy nhiên, vì tài sản ảo nói chung, tiền ảo nói riêng chưa được công nhận là tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam, nên việc có thành lập được Hội đồng định giá và Hội đồng này sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn nào để tiến hành định giá tiền ảo cũng là vấn đề quan trọng được đặt ra.
Nguyễn Thị Dung
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án
-
1Hoàn thiện pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
-
2Đồng Tháp: Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát và phối hợp liên ngành tại địa phương
-
3Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án
-
4Bàn về quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
-
5Tiền ảo và những thách thức đối với công tác thi hành án dân sự
Bài viết chưa có bình luận nào.