Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

05/05/2025 09:53

(kiemsat.vn)
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là di sản tư tưởng, lý luận quý báu; là kim chỉ nam cho sự ra đời, phát triển và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là di sản tư tưởng, lý luận quý báu; là kim chỉ nam cho sự ra đời, phát triển và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong điều kiện thực tiễn của đất nước, đòi hỏi cần tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định thắng lợi đối với nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa là nấc thang phát triển mới về chất trong lịch sử phát triển về tổ chức, hoạt động nhà nước, thể hiện khát vọng cháy bỏng của loài người về mô hình nhà nước tiến bộ, dân chủ mà ở đó mọi người dân tự giác tuân thủ pháp luật và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Trong di sản lý luận đồ sộ để lại cho nhân loại, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin mặc dù chưa sử dụng thuật ngữ “NNPQ”, nhưng đã xác lập về tư tưởng, lý luận những giá trị đặc trưng, cốt lõi về mô hình nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp, thể hiện quyền làm chủ thực sự, thực tế của Nhân dân. Trong giai đoạn mới, đòi hỏi cần tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định thắng lợi đối với nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Theo V.I.Lênin, chính trị đòi hỏi phải “nắm lấy cái căn bản nhất trong chính trị: Tức là việc tổ chức chính quyền nhà nước”, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là chính quyền. Mọi giai cấp muốn nắm quyền thống trị trước hết phải giành lấy chính quyền để hiện thực hoá lợi ích căn bản của mình như là lợi ích phổ biến của xã hội. Tuy nhiên, giành chính quyền chỉ là sự khởi đầu của việc xác lập chính quyền mới dân chủ, văn minh, tiến bộ, vấn đề cốt lõi là phải xây dựng được một mô hình nhà nước kiểu mới khác hẳn về chất so với các mô hình nhà nước kiểu cũ, trong đó có mô hình NNPQ. Trên cơ sở nghiên cứu tường tận về mô hình NNPQ tư sản, C.Mác cho rằng: Sự ra đời của NNPQ tư sản được quy định bởi sự hình thành của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường và xã hội công dân. Mặc dù sự xuất hiện của NNPQ tư sản là một bước tiến dài, rất quan trọng trong việc thiết lập các quyền tự do, dân chủ của mỗi người dân, nhưng thực chất đây chưa phải là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì nó dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác khẳng định: “Pháp quyền tư sản của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông đề lên thành luật pháp”. Bản chất thực sự của NNPQ tư sản là việc xác lập các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng thông qua hệ thống pháp luật chỉ dành cho những người đang sở hữu đa số tư liệu sản xuất trong xã hội, để bảo vệ lợi ích của chính họ, mà không phải là đem lại tự do, dân chủ, bình đẳng về lợi ích cho đa số Nhân dân. Trên cơ sở hiểu rõ bản chất của NNPQ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và công bằng xã hội chỉ có thể được thực hiện trong NNPQ xã hội chủ nghĩa và đưa ra những đặc trưng cốt lõi của NNPQ mới. Cụ thể như sau:

Một là, NNPQ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ kinh tế này là điều kiện, tiền đề quyết định việc xác lập vị thế, vai trò bình đẳng của mọi công dân trong quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Sự khẳng định đó quy định mọi công dân trong xã hội đều là người chủ tư liệu sản xuất và bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội để tạo lập cơ sở kinh tế cho đời sống xã hội, có quyền thụ hưởng và sử dụng mọi tài sản xã hội trên nguyên tắc phân phối bình đẳng. Do đó, Nhân dân trở thành lực lượng thống trị xã hội, chủ thể quyết định chế độ chính trị, pháp lý tương ứng, lấy hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản là hệ tư tưởng đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và một chế độ pháp lý thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Sự khẳng định trên cho thấy bản chất thực sự của NNPQ xã hội chủ nghĩa là quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, bảo vệ lợi ích của Nhân dân.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có sự đan xen tồn tại giữa những “mảnh đoạn” của xã hội cũ cùng với những yếu tố của xã hội mới đang ra đời nhưng còn non yếu, chúng kết hợp với nhau, thâm nhập vào nhau, đấu tranh với nhau, do đó, mọi hình thức phát triển đều mang đặc trưng, đặc điểm của cả xã hội cũ và xã hội mới. Về mặt kinh tế, V.I.Lênin cho rằng, phải chấp nhận nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần trong toàn bộ nền kinh tế đất nước, vì “chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”. Dù tồn tại nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu khác nhau, song cơ sở kinh tế của NNPQ xã hội chủ nghĩa không có gì khác, vẫn dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mọi sự xa rời cơ sở kinh tế này đều dẫn đến thất bại, sai lầm trong xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, NNPQ được thiết lập dựa trên thể chế chính trị dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.

V.I.Lênin khẳng định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền Xô Viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ nhất, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”. Do đó, trong NNPQ xã hội chủ nghĩa, các quan hệ xã hội không còn là quan hệ giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, không còn chế độ người bóc lột người. Thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cơ sở cho dân chủ về chính trị, pháp lý, tư tưởng. Không thể có một nền dân chủ thực sự về chính trị nếu nền dân chủ ấy không xuất phát từ dân chủ trong kinh tế. V.I.Lênin cho rằng: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”. Thiết lập và thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách đầy đủ thực chất là nhiệm vụ quan trọng nhất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó cần diễn ra theo một tiến trình phù hợp với bối cảnh và điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, từng xã hội cụ thể. Trong giai đoạn đầu, khi nhà nước vô sản mới thành lập, việc thực hiện chuyên chính của nhà nước vô sản chính là nhân tố đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Trên cơ sở phân tích sự khác nhau giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quan niệm về bản chất của dân chủ. Theo C.Mác, dân chủ trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; tự do chính trị cho mọi công dân; quyết định theo đa số của mọi công dân; quyết định bằng cách biểu quyết. Dân chủ phải được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra, có thể bị Nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào”. Chỉ có thể gọi một cuộc bầu cử là dân chủ nếu nó là phổ thông, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có những ủy ban nào do toàn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu mới là những ủy ban dân chủ. Toàn bộ công việc quản lý nhà nước từ dưới lên đều do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia quản lý, chứ không dừng lại ở cơ quan đại diện và đại biểu đại diện. Quần chúng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý nhà nước và điều khiển toàn bộ hoạt động của nhà nước. Đồng thời, Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra nếu các đại biểu đó không còn đủ tư cách. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Dân là chủ, làm chủ nên bản thân họ cũng phải đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong tham gia nuôi dưỡng, bảo vệ nhà nước. Khi bàn về vấn đề này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”. Đây chính là quan niệm biện chứng về bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ và đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật.

Quản lý xã hội bằng pháp luật là bản chất đặc trưng của NNPQ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để hạn chế tối đa sự “tùy tiện” của cơ quan nhà nước, phải xây dựng hệ thống pháp luật với tư cách là “mẫu số chung”, là tiêu chuẩn cao nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội, đặc biệt là quyền tự do, dân chủ của con người. C.Mác đã khẳng định: “Tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong Nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do... Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến... không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của Nhân dân”.

Mặt khác, để pháp luật thực sự là công cụ để quản lý xã hội và kiểm soát quyền lực nhà nước, phải xây dựng hệ thống pháp luật công bằng, tiến bộ, vì con người. C.Mác khẳng định: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi pháp luật. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”.

Bên cạnh đó, phải đảm bảo tính ổn định của pháp luật. Muốn vậy, pháp luật phải bám sát cơ sở kinh tế - xã hội hiện tại và xu thế vận động của kinh tế - xã hội trong tương lại gần để dự báo các quan hệ xã hội cần được điều chỉnh. C.Mác chỉ rõ: “Xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở. Đó chỉ là ảo tưởng của những nhà luật học. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra mà không phải là do ý muốn tùy tiện của một cá nhân... Chừng nào bộ luật không còn thích hợp với quan hệ xã hội nữa thì nó sẽ biến thành một mớ giấy lộn ngay”. Chỉ dẫn trên cho thấy, trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nước cần nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác xu thế vận động của đời sống kinh tế - xã hội và dự báo chính xác từ sớm, từ xa chiều hướng phát triển của các quan hệ xã hội. Đây là yêu cầu rất cao mà hiệu quả của nó phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất, năng lực xây dựng luật của các cơ quan chuyên trách soạn thảo, thẩm định và thông qua.

Trong NNPQ, pháp luật là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước duy trì trật tự xã hội một cách hợp pháp theo ý chí mà giai cấp thống trị muốn hướng đến. Tuy nhiên, pháp luật không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, mà còn là công cụ để quản lý chính bản thân mình. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ”. Tinh thần thượng tôn pháp luật không chỉ là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi người dân, mà còn đối với toàn bộ Nhà nước, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đây chính là một trong những đặc trưng bản chất thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ, công bằng, dân chủ của NNPQ xã hội chủ nghĩa với NNPQ tư sản.

Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ không thể hoạt động theo đúng định hướng nếu không có hệ thống pháp chế đầy đủ, đồng bộ và hoàn chỉnh. Pháp chế thực chất là “chế độ tuân thủ pháp luật” của tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “pháp chế là sự tuân thủ luật của những người tham gia các quan hệ xã hội”. Thực tiễn xây dựng xã hội mới, các nhà kinh điển Mác - Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật và duy trì trật tự xã hội theo pháp luật. Đồng thời, khẳng định đây là yếu tố đặc biệt quan trọng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Phải là pháp chế duy nhất cho toàn nước Nga và cho toàn thể Liên bang của các nước cộng hòa Xô Viết nữa”. Nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa trở thành những tư tưởng chủ đạo, cơ bản trong xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Để xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, cần tập trung vào những nội dung chính sau: Bảo đảm sự thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc; bảo đảm hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp; thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật là nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi chủ thể; mọi vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ; bảo đảm và bảo vệ quyền, tự do của con người và công dân theo quy định của pháp luật.

2. Ý nghĩa của quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Đối với Việt Nam, việc lựa chọn xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa là hướng tới xây dựng mô hình nhà nước vừa đáp ứng những giá trị phổ quát, vừa bao gồm những yếu tố giá trị đặc thù quốc gia. Sự ra đời, phát triển mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Đảng ta quán triệt sâu sắc quan điểm: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” về xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh mới hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần thực hiện những nội dung, biện pháp sau đây:

Thứ nhất, cần chú trọng xây dựng thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa tạo nền tảng vật chất cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xây dựng thể chế kinh tế thị trường chính là xác lập cơ sở kinh tế cho NNPQ, bảo đảm cho NNPQ xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta chủ trương phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của NNPQ xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế có sự quản lý của NNPQ xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong đó, vấn đề cốt lõi là cần xác lập vị trí, vai trò và gắn kết chặt chẽ các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững. Đại hội XIII của Đảng khẳng định vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế ở Việt Nam là: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã - hội”.

Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; không nên có thái độ định kiến và kì thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao, nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường; đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: Thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn; chủ động hội nhập thị trường quốc tế; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.

Thứ hai, cần thực hiện tốt cơ chế vận hành quyền lực Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt, Nhân dân làm chủ.

Đây là một trong những nội dung cốt lõi trong quan điểm về xây dựng NNPQ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 Khoá XIII của Đảng chỉ rõ: “Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”. Cái gốc của NNPQ là xác lập dân chủ, thừa nhận và bảo đảm thực hiện quyền lực của Nhân dân. Do đó, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân phải là sứ mệnh hàng đầu của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt, Nhân dân làm chủ” phản ánh bản chất dân chủ của chế độ ta. Do đó, vấn đề mấu chốt để thực hiện nguyên tắc này là phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thành tố trong hệ thống chính trị, bảo đảm các thành tố hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tránh chồng chéo hoặc bao biện, làm thay.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện các quy chế, quy định về tổ chức, hoạt động của Đảng. Theo đó, cần chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển; tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng; gắn đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; chú trọng xây dựng bộ máy NNPQ hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước, trong đó, lấy mục tiêu xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân làm thức đo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước; tập trung xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ, công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước; xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức tốt, gương mẫu, tiên phong, tận tụy, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, xã hội; đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để bảo đảm vị thế, tính độc lập trong thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội và đại diện thật sự cho quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy trí tuệ của Nhân dân trong việc ban hành quyết sách; hoàn thiện cơ chế dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của Nhân dân; tập trung xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của người dân; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định để người dân được phát huy quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ ba, xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật dân chủ, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.

Trong bối cảnh xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đối với công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật được đặt ra cấp bách và vô cùng cần thiết. Đảng ta xác định nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm là: “Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo”20. NNPQ xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, đồng thời phải đảm bảo được vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Hội nhập trên cơ sở pháp luật, hệ thống pháp luật phải tương thích, đáp ứng được yêu cầu đời sống hiện đại trong nước và quốc tế. Đây là giải pháp rất căn bản để góp phần khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các văn bản pháp luật. Trên cơ sở hệ thống pháp luật, cần rà soát hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gắn với việc rà soát, đánh giá, xem xét, dự kiến bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, nhằm kịp thời loại bỏ những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, không đúng thẩm quyền, không minh bạch, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật. Đồng thời, cần chú trọng, đề cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm người đứng đầu trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật.

Nguyễn Trung Thành - Trần Quốc Trưởng

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam

(Kiemsat.vn) - Bài viết tập trung phân tích làm rõ một số vấn đề pháp lý về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như căn cứ, hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của một số nước trên thế giới (Pháp, Liên bang Nga, Nhật Bản), so sánh với pháp luật Việt Nam; từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang