Cơ chế thoả thuận nhận tội trong tố tụng hình sự Nhật Bản và khuyến nghị đối với Việt Nam
(kiemsat.vn) Bài viết phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản về thoả thuận nhận tội và thực tiễn áp dụng cơ chế này, qua đó đánh giá khả năng áp dụng chế định thoả thuận nhận tội trong tư pháp hình sự Việt Nam và đưa ra một số gợi mở trong quá trình nghiên cứu xây dựng, áp dụng chế định này trong thời gian tới.
Kinh nghiệm đánh giá chứng cứ của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
1. Khái quát về cơ chế thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản
1.1. Quy định về cơ chế thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản
Từ tháng 06/2018, Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản sửa đổi năm 2016 (gọi tắt là BLTTHS Nhật Bản) có hiệu lực thi hành, theo đó, cơ chế thỏa thuận nhận tội chính thức được áp dụng tại quốc gia này. Thoả thuận nhận tội cho phép các nghi phạm, bị cáo thương lượng, thỏa thuận với Công tố viên thông qua việc cung cấp lời khai/chứng cứ về hành vi phạm tội của bên thứ ba (cá nhân/pháp nhân) nhằm đổi lấy việc giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự và hình phạt. Trên cơ sở đó, cơ chế này trở thành công cụ mới giúp Điều tra viên và Công tố viên có thể thu thập thêm chứng cứ. Việc áp dụng chính thức cơ chế mới này hướng tới mục đích cải thiện và đa dạng hóa quy trình thu thập chứng cứ, qua đó góp phần hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự của Nhật Bản.
Trước khi có cơ chế thỏa thuận nhận tội, thực tế đã có những trường hợp các Công tố viên Nhật Bản thương lượng về việc miễn trừ trách nhiệm hình sự đối với nghi phạm, bị cáo để có chứng cứ, lời khai, nhưng đây chỉ là thủ tục phi chính thức và dẫn đến sự không thống nhất giữa luật pháp và thực tiễn thi hành. Tuy nhiên, một số Công tố viên Nhật Bản cho rằng, việc sử dụng thoả thuận nhận tội để xoá bỏ thủ tục xét xử tại phiên toà là không phù hợp, trong khi đó, nếu sử dụng như một cách điều tra, truy tố thì có thể chấp nhận. Do đó, Nhật Bản đã chọn cách pháp điển hoá cơ chế thoả thuận nhận tội trong lần sửa đổi BLTTHS năm 2016. Cùng với sự ra đời của cơ chế mới, Nhật Bản cũng ban hành Nguyên tắc ứng phó với hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp và Quy tắc quản trị doanh nghiệp, trong đó, tăng cường cơ chế tố giác tội phạm thông qua việc miễn trừ truy tố cho doanh nghiệp đứng ra tố giác vi phạm của doanh nghiệp khác trong một số trường hợp nhất định.
Trong cơ chế thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản, nghi phạm/bị cáo hợp tác, thỏa thuận với các Công tố viên để điều tra hoặc truy tố đối với hành vi phạm tội của “bên thứ ba”, không phải thoả thuận và thừa nhận hành vi phạm tội của chính mình để đổi lấy sự khoan hồng. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản với thỏa thuận nhận tội ở Hoa Kỳ - nơi được coi là “chiếc nôi” của cơ chế thoả thuận nhận tội trong tư pháp hình sự. Giải thích cho sự khác biệt này, trong quá trình lập pháp ở Nhật Bản, Cơ quan điều tra đã lập luận rằng nếu nghi can/bị cáo hợp tác, thừa nhận hành vi phạm tội của mình (như trong thoả thuận nhận tội ở Hoa Kỳ) để được miễn, giảm trách nhiệm hình sự thì người này có thể “miễn cưỡng” cung cấp chứng cứ hoặc nhận tội không đúng thực tế, dẫn đến việc sai lệch sự thật khách quan. Bên cạnh đó, các nhà lập pháp Nhật Bản cũng cân nhắc tới vấn đề dư luận xã hội, theo đó, một người có hành vi vi phạm nên thành khẩn thú tội để được khoan hồng mà không cần đến điều kiện hay sự mặc cả nào.
1.2. Điều kiện áp dụng thoả thuận nhận tội
Thứ nhất, vụ án được áp dụng thoả thuận nhận tội nếu liên quan đến tội phạm nhất định được liệt kê tại Điều 350-2 BLTTHS Nhật Bản, liên quan tới một số lĩnh vực điển hình như: Tội phạm liên quan đến sử dụng trái phép các chất ma túy và sử dụng trái phép vũ khí, chất nổ; tội phạm về gian lận, kinh tế hoặc tài chính như Tội đưa hối lộ, nhận hối lộ, Tội gian lận, Tội vi phạm quy định về chống độc quyền, tội phạm về thuế và tài chính; tội phạm phá huỷ bằng chứng.
Thứ hai, để cơ chế thoả thuận nhận tội được áp dụng thì cả tội phạm do nghi phạm/bị cáo thực hiện (được yêu cầu áp dụng thoả thuận nhận tội) và tội phạm do bên thứ ba thực hiện (mà nghi phạm/bị cáo thoả thuận sẽ cung cấp chứng cứ cho nó) đều phải thuộc phạm vi những tội phạm cụ thể đã được liệt kê trên.
Thứ ba, hành vi phạm tội của các bên đều không thuộc trường hợp mà hình phạt cao nhất theo quy định của pháp luật hình sự (bao gồm cả quy định của Bộ luật Hình sự và một số luật chuyên ngành) là tử hình hoặc tù chung thân.
1.3. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong cơ chế thoả thuận nhận tội
Ở Nhật Bản, cơ chế thoả thuận nhận tội bao gồm hai bên chủ thể là Công tố viên và nghi phạm/bị cáo, trong đó, nghi phạm/bị cáo bắt buộc phải có người bào chữa - Luật sư trong mọi trường hợp. Cả Công tố viên hoặc nghi phạm/bị cáo có thể đề nghị ký kết thoả thuận nhận tội, tuy nhiên cần có sự đồng ý của Luật sư đối với việc tiến hành thoả thuận nhận tội. Cụ thể như sau:
Công tố viên trong quá trình thoả thuận có thể yêu cầu nghi phạm/bị cáo trình bày về những thông tin mà người bị buộc tội nắm được. Trước khi ký kết thực hiện thỏa thuận nhận tội, Công tố viên có thể yêu cầu nghi phạm/bị cáo cung cấp lời khai liên quan đến hành vi phạm tội của bên thứ ba. Sau đó, Công tố viên dựa trên thông tin thu được trong quá trình thương lượng sẽ quyết định liệu có nên ký kết một thỏa thuận nhận tội hay không. Các Công tố viên sẽ xem xét đến các yếu tố: (i) Giá trị hoặc tầm quan trọng của bằng chứng do nghi phạm/bị cáo cung cấp sau khi thỏa thuận nhận tội được hoàn tất; (ii) Mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bên thứ ba mà nghi phạm/bị cáo sẽ hợp tác để cung cấp chứng cứ; (iii) Tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà nghi phạm/bị cáo bị truy tố so với tội phạm của bên thứ ba. Trong trường hợp thoả thuận không thành công thì chứng cứ mà nghi phạm/bị cáo cung cấp cho Công tố viên sẽ không được chấp nhận tại Tòa án.
Nghi phạm/bị cáo khi tham gia thoả thuận nhận tội có quyền được “nhượng bộ” đối với hành vi phạm tội của mình, bao gồm: Không truy tố, rút quyết định truy tố với một hoặc một số tội, truy tố với tội nhẹ hơn, đề xuất mức hình phạt giảm nhẹ trong cáo trạng, đưa quan điểm trong bản luận tội tại phiên toà để nghi phạm/bị cáo được áp dụng một hình phạt nhất định, yêu cầu áp dụng thủ tục rút gọn cho vụ án của người bị buộc tội, tuyên bố về việc đẩy nhanh thủ tục xét xử. Đồng thời, nghi phạm/bị cáo có nghĩa vụ cung cấp thông tin, chứng cứ khách quan, trung thực trong quá trình điều tra, truy tố, hoặc tham gia phiên toà với tư cách là nhân chứng trong giai đoạn xét xử, hoặc tham gia hợp tác với Công tố viên hoặc Điều tra viên nhằm mục đích thu thập chứng cứ.
Bên cạnh đó, Luật sư bào chữa đóng vai trò trung tâm trong chế định thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản. Trước hết, việc tiến hành, bắt đầu thoả thuận nhận tội cần có sự đồng ý của Luật sư. Tiếp đó, Luật sư được yêu cầu tham gia vào các cuộc đàm phán liên quan đến các điều khoản cụ thể của thỏa thuận, thương lượng nhận tội. Phiên thoả thuận thiếu sự tham gia của Luật sư trong mọi trường hợp đều bị coi là vô hiệu. Điều này nhằm bảo vệ quyền cho thân chủ của họ và giúp ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng cơ chế mới.
1.4. Miễn trừ trách nhiệm đối với các bên trong thoả thuận nhận tội
Cơ chế thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản cho phép các bên (nghi phạm/bị cáo hoặc Công tố viên) được miễn trừ trách nhiệm của họ theo thỏa thuận trong một số trường hợp nhất định như sau:
(i) Khi Tòa án không chấp nhận thoả thuận nhận tội hoặc không chấp nhận với đề xuất của Công tố viên. Trong trường hợp này, có thể là do Tòa án đưa ra mức hình phạt cao hơn so với hình phạt mà Công tố viên truy tố;
(ii) Một bên trong thoả thuận nhận tội vi phạm/không hợp tác thực hiện cam kết đã nêu trong thoả thuận được ký kết. Đối với trường hợp này, một bên có thể rút khỏi thoả thuận nhận tội và được miễn trừ trách nhiệm đã thoả thuận. Việc rút khỏi thỏa thuận này phải được thông báo cho bên còn lại bằng văn bản có nêu rõ lý do rút khỏi thoả thuận. Đặc biệt, trong trường hợp bên vi phạm cam kết đã nêu trong thoả thuận thì chứng cứ mà nghi phạm/bị cáo đã cung cấp trong quá trình thoả thuận trước đó sẽ không được sử dụng tại Tòa án trong vụ án hình sự của bên thứ ba.
1.5. Cơ chế bảo đảm
Khi cơ chế thoả thuận nhận tội chính thức được ghi nhận ở Nhật Bản, đã có nhiều quan điểm xung quanh cơ chế này, như tính chất của thoả thuận nhận tội không phù hợp với thủ tục tố tụng hình sự thẩm vấn và có khả năng “bóp méo sự thật” và quan ngại đối với việc gia tăng tỉ lệ kết án oan. Nguyên nhân xuất phát từ mối lo ngại người bị buộc tội muốn nhanh chóng thoát khỏi quy trình tố tụng hoặc muốn hưởng các lợi ích về việc miễn, giảm truy tố, giảm hình phạt mà đưa ra những thông tin hoặc bằng chứng sai lệch đối với vụ án của bên thứ ba, từ đó dẫn đến việc kết án oan người vô tội. Đặc biệt, hệ thống tố tụng hình sự Nhật Bản cho phép thời gian giam giữ nghi phạm trước phiên toà tương đối dài (lên đến 23 ngày), điều này cũng có thể tạo áp lực về mặt tâm lý đối với nghi phạm/bị cáo khi tham gia thoả thuận nhận tội. Bên cạnh đó, Nhật Bản được đánh giá là quốc gia có tỉ lệ kết tội cao, số vụ án mà Tòa án tuyên án có tội so với số vụ án mà Công tố viên truy tố chiếm tỷ lệ 99%, điều này đặt ra nghi vấn rằng liệu những vụ án được truy tố từ việc thu thập chứng cứ qua thoả thuận nhận tội và tiếp đó là tuyên án có tội liệu có oan sai hay không? Do vậy, để tránh việc lạm dụng thoả thuận nhận tội, Nhật Bản đã chính thức ghi nhận nhưng vẫn đặt ra những giới hạn nhất định trong cả pháp luật và thực tiễn để cơ chế này chỉ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định, với sự cân nhắc hết sức thận trọng. Cụ thể:
Dưới góc độ lập pháp, điều này thể hiện qua việc giới hạn phạm vi các tội được áp dụng cơ chế thoả thuận nhận tội; quy định chi tiết, cụ thể những yếu tố mà Công tố viên cần cân nhắc khi áp dụng thoả thuận nhận tội ngay trong BLTTHS sửa đổi năm 2016. Hơn nữa, Bộ luật này cũng quy định hành vi lạm dụng thoả thuận nhận tội (của nghi phạm/bị cáo, Công tố viên hoặc Điều tra viên) có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, với hình phạt tù lên đến 05 năm tù.
Dưới góc độ thực tiễn, Tòa án tối cao Nhật Bản cho rằng thoả thuận nhận tội nên được cân nhắc kỹ lưỡng khi áp dụng, trong trường hợp gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin bằng những phương pháp điều tra truyền thống và khi Công tố viên có thể thu thập những thông tin quan trọng khi sử dụng cơ chế này.
Thực tế, kể từ năm 2018 đến nay - khi chế định thỏa thuận nhận tội được luật hóa tại Nhật Bản, mới chỉ có ba vụ án áp dụng chế định này. Vụ án đầu tiên liên quan đến hành vi hối lộ của công chức nước ngoài. Vụ án thứ hai liên quan đến hai hành vi phạm tội là vi phạm Đạo luật về công cụ tài chính và giao dịch tài chính và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (cụ thể là biển thủ tiền của công ty). Vụ án thứ ba liên quan đến hành vi tham ô tài sản. Trong cả ba vụ án, phía Toà án đều thể hiện sự thận trọng và không đánh giá cao giá trị của các bằng chứng là lời khai thu được qua thoả thuận nhận tội, mà vẫn yêu cầu có bằng chứng khách quan. Như vậy, việc sử dụng thoả thuận nhận tội gặp khó khăn trên thực tiễn vì nghi phạm/bị cáo cần cung cấp không chỉ lời khai, mà còn cả bằng chứng khách quan để chứng minh cho họ, đồng thời, cần có thời gian để thương lượng, thoả thuận.
2. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Qua nghiên cứu cho thấy, chế định thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản được đánh giá là góp phần tích cực giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nước này giảm gánh nặng trong việc thu thập chứng cứ khi giải quyết các vụ án tham nhũng, đặc biệt là hối lộ công chức nước ngoài và hỗ trợ tích cực cho việc điều tra hành vi phạm tội của người đứng đầu các tổ chức, pháp nhân (thông qua việc thực hiện chính sách khoan hồng để thu thập các chứng cứ buộc tội từ phía các cá nhân cấp dưới trong tổ chức, pháp nhân đó). Tuy nhiên, việc sử dụng thoả thuận nhận tội ở quốc gia này còn chưa thực sự rộng rãi, theo đó, thay vì làm thay đổi cơ bản cách thức điều tra các vụ án ở Nhật Bản, thì chế định này chủ yếu được sử dụng như một công cụ bổ sung, hỗ trợ cho các Công tố viên trong một số trường hợp thật sự cần thiết.
Ở Việt Nam, pháp luật hình sự hiện hành đã có những quy định thể hiện chính sách khoan hồng đối với người bị buộc tội trong quá trình điều tra tội phạm; đồng thời, khuyến khích họ cung cấp thông tin, lời khai cho cơ quan tiến hành tố tụng để quá trình điều tra, truy tố, xét xử diễn ra nhanh chóng, kịp thời. Điểm d khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”. Cụ thể nguyên tắc này, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51) và miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29). Theo đó, người phạm tội tự thú, hoặc thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoặc tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án thì có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, việc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không là không chắc chắn như trong cơ chế thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản. Bên cạnh đó, trường hợp người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác nếu đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây là việc thoả thuận, thương lượng được thực hiện giữa người phạm tội và người bị hại, không phải giữa người phạm tội và cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. Ngoài ra, quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự nói riêng. Thỏa thuận nhận tội là một chế định văn minh, tiến bộ, giúp giảm thời gian, chi phí cho quá trình tố tụng và đã được nhiều quốc gia tiêu biểu trên thế giới áp dụng thành công. Đồng thời, thực tiễn tư pháp hình sự Việt Nam cũng cho thấy đã có những tiền đề, điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm từ các quốc gia đã áp dụng thoả thuận nhận tội.
Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù chế định thoả thuận nhận tội chưa quy định trong tố tụng hình sự Việt Nam, nhưng trong tương lai, chế định này có thể được nghiên cứu để thể chế hoá và áp dụng ở Việt Nam. Trong trường hợp đó, kinh nghiệm của Nhật Bản về chế định thoả thuận nhận tội có giá trị tham khảo quan trọng đối với Việt Nam. Lý do là bởi Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia châu Á có nhiều nét tương đồng về đặc điểm văn hoá - xã hội và mô hình tố tụng hình sự của hai quốc gia đều thuộc mô hình tố tụng thẩm vấn. Mục đích của thoả thuận nhận tội ở Nhật Bản có nhiều nét tương đồng với các mục tiêu trong chính sách hình sự Việt Nam hiện nay, cụ thể là nhằm hướng tới việc kịp thời phát hiện và giải quyết tội phạm, đặc biệt là các tội phạm tham nhũng, kinh tế. Đồng thời, thoả thuận nhận tội cũng là một chế định nhân đạo - phù hợp với tinh thần của chính sách hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở kinh nghiệm của Nhật Bản về thoả thuận nhận tội, chúng tôi đề xuất một số gợi mở trong trường hợp xây dựng chế định thoả thuận nhận tội ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, chế định thoả thuận nhận tội có thể được xây dựng theo hướng là cơ chế cho phép bị can, bị cáo thương lượng, thỏa thuận với Điều tra viên, Kiểm sát viên về việc thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân, hoặc cung cấp lời khai/chứng cứ về hành vi phạm tội của bên thứ ba (cá nhân/pháp nhân) nhằm đổi lấy việc giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự và hình phạt. Điều này góp phần đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án hình sự và kịp thời phát hiện, xử lý tội phạm.
Thứ hai, khi quy định về thoả thuận nhận tội, các nhà lập pháp cũng cần nghiên cứu xây dựng các quy định về cơ chế bảo đảm thi hành, tránh việc vì muốn giải quyết nhanh vụ án mà chấp nhận những chứng cứ không đảm bảo khách quan, dẫn đến sai lệch sự thật. Theo đó, có thể tội phạm hoá hành vi lạm dụng thoả thuận nhận tội của các bên trong thoả thuận nhận tội, hoặc xây dựng các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi cung cấp chứng cứ không đúng của bị can/bị cáo.
Thứ ba, việc nghiên cứu xây dựng và áp dụng chế định thoả thuận nhận tội trong tương lai cần có lộ trình cụ thể, rõ ràng. Bước đầu thử nghiệm cơ chế này, Việt Nam nên học tập kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc giới hạn một số loại tội phạm được áp dụng thoả thuận nhận tội như tội phạm về tham nhũng, kinh tế hay trong trường hợp tội phạm có tổ chức. Đồng thời, trên thực tế, cơ quan tố tụng cần hết sức cẩn trọng trong việc chấp nhận những lời khai thu được từ việc thoả thuận giữa Điều tra viên/Kiểm sát viên và bị can/bị cáo.
Nguyễn Đức Anh - Doãn Nhật Linh
Thu thập chứng cứ điện tử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
-
1Kinh nghiệm đánh giá chứng cứ của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi
-
2Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
-
3Thu thập chứng cứ điện tử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
-
4Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
-
5Cơ chế thoả thuận nhận tội trong tố tụng hình sự Nhật Bản và khuyến nghị đối với Việt Nam
Bài viết chưa có bình luận nào.