Về áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015

03/10/2025 14:26

(kiemsat.vn)
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là công cụ hữu hiệu để cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng pháp luật. Với vai trò đó, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các biện pháp được sử dụng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Trách nhiệm hình sự (TNHS) và hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị hay giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân tốt cho xã hội khi TNHS được áp dụng, hình phạt được tuyên tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Sự thiên lệch theo chiều hướng quá nặng hay quá nhẹ trong xử lý tội phạm đều có thể đem lại những kết quả tiêu cực nhất định cho xã hội. Nếu lạm dụng các tình tiết tăng nặng để áp dụng biện pháp xử lý quá nghiêm khắc sẽ dẫn đến phản tác dụng quá trình cải tạo, giáo dục của người phạm tội, nếu bỏ qua các tình tiết tăng nặng TNHS để quyết định một hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm hiệu quả của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

1. Một số bất cập trong việc áp dụng một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

- Về tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội:

Theo Điều 352 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) thì: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.

Như vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tội phạm xảy ra do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ. Người phạm tội lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng TNHS. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan đến chức vụ, quyền hạn của họ thì không bị coi là có tình tiết tăng nặng này.

Tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội chỉ được coi là tình tiết tăng nặng TNHS khi nó không phải là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt đã được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể. Ví dụ: Điều 356 BLHS năm 2015 quy định về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc điểm b khoản 2 Điều 190 BLHS năm 2015 về Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn đã là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tăng nặng hình phạt đối với người phạm tội nữa.

Ví dụ: Nguyễn Quang H được giao nhiệm vụ quản lý nhà máy nước số 1 - Trung tâm huấn luyện K. H đã móc nối với các chiến sĩ tuần tra, canh gác nhằm thuê người vào đào ống nước bán lấy tiền. Trong trường hợp này, H bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.

Trong thực tiễn xét xử, việc xác định người có chức vụ, quyền hạn và người phạm tội có lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội hay không còn gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Theo Điều 352 BLHS năm 2015, thì có nhiều căn cứ khác nhau để xác định một người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác… Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức nào mà gắn với những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như vậy, trong khái niệm này theo chúng tôi người có chức vụ có thể được hiểu là người được giao thực hiện công vụ (mang tính chất hợp pháp) và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó.

Ngoài khái niệm người có chức vụ, một vấn đề khác cũng cần thiết phải xác định cụ thể thế nào là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ trở thành chủ thể của tội phạm khi họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để phạm tội. Chức vụ luôn gắn với quyền năng nhất định, người có chức vụ có quyền được quyết định những công việc có liên quan đến lợi ích chung của xã hội.

Để thấy rõ vướng mắc khi xác định người có chức vụ, quyền hạn và xác định người phạm tội có lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội hay không trong thực tiễn xét xử, thông qua vụ án sau đây để làm rõ vấn đề này.

Ví dụ: Khoảng 19 giờ 30 ngày 16/7/2021, anh Lương Khắc P cùng Vũ Như M đi xe máy qua cổng nhà anh Lương Văn H, thì P bảo anh M dừng xe để P vào nhà anh H lấy trộm xe đạp đang dựng trước cửa nhà anh H. Sau đó, chị Vũ Thị L là chủ xe phát hiện, hô hoán và cùng anh H chạy ra bắt giữ P, M. Sự việc được báo lên cho Phạm Đức S (Trưởng ban bảo vệ dân phố). S cùng Đ (khu phố trưởng) đến nhà anh H để giải quyết sự việc. Khi đi S mặc trang phục bảo vệ dân phố và mang theo gậy cao su. Khi đến nhà anh H thấy đông người, S hỏi vợ chồng anh H “trộm đâu”, thì anh H chỉ vào P. S hỏi anh P: “Có đúng mày lấy cắp không” thì P không thừa nhận. S cầm gậy cao su vụt nhiều nhát vào đầu, vai anh P. Sau đó, anh P chết lúc 02 giờ ngày 18/7/2021. Tại Bản giám định pháp y số 165 ngày 19/7/2021 của Tổ chức giám định pháp y tỉnh D kết luận “nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Lương Khắc P là do chấn thương sọ não kín, thể loại chết không tự nhiên”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh D áp dụng khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt Phạm Đức S 05 năm tù về Tội cố ý gây thương tích.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 127; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt Phạm Đức S 42 tháng tù về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.

Như vậy, cả hai cấp xét xử đều xác định Phạm Đức S là người có chức vụ, quyền hạn và S đang thi hành công vụ. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xét xử Phạm Đức S về Tội cố ý gây thương tích và áp dụng tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, còn cấp phúc thẩm xét xử Phạm Đức S về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.

Trong vụ án này, Phạm Đức S nhận được tin báo có vụ việc trộm cắp xảy ra tại nhà anh H, S đã mặc trang phục bảo vệ dân phố và mang theo công cụ hỗ trợ kịp thời đến nhà anh H giải quyết là hoàn toàn phù hợp với chức trách, nhiệm vụ; như vậy S đang thi hành công vụ. Tuy nhiên, khi phát hiện có sự việc anh P trộm cắp xe đạp, Phạm Đức S phải tìm cách báo cho Công an phường đến để xử lý, nhưng S đã không thực hiện. Theo chúng tôi, cấp phúc thẩm xét xử Phạm Đức S về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là chưa chính xác. Bởi vì, khoản 1 Điều 127 BLHS năm 2015 quy định “người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép…”. Trong vụ án này, P khi bị bắt, không có bất kỳ hành vi chống trả hay cản trở công vụ của S để buộc S phải dùng vũ lực khống chế. Việc S đánh P là do bản tính hách dịch, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác mà không liên quan đến công vụ của S, nên Phạm Đức S không phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ. Chúng tôi cho rằng, Phạm Đức S phải bị xử lý về Tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015, nhưng cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 52 BLHS là chưa chính xác. Trong trường hợp này, Phạm Đức S phải đưa anh P và anh M về Ủy ban nhân dân phường và báo cáo cho Trưởng công an phường đến giải quyết theo thẩm quyền. Việc S đã đánh và đánh nhiều lần làm cho anh P bị thương dẫn đến chết, lỗi hoàn toàn do S không liên quan đến công vụ. Do đó, trong vụ án này S không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội cố ý gây thương tích cho anh P.

- Về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên:

Tình tiết phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp có từ hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, chưa bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hạn truy cứu TNHS, nay các lần phạm tội đó được xét xử trong cùng một bản án.

Như vậy, phạm tội 02 lần trở lên có các đặc điểm sau đây:

(i) Phạm tội 02 lần trở lên là người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau (ví dụ, phạm tội nhiều lần đối với một người hoặc đối với nhiều người; nhiều lần trộm cắp, nhiều lần buôn bán trái phép chất ma túy, nhiều lần tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều lần hiếp dâm);

(ii) Nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi hành vi đã đủ các yếu tố cấu thành một tội độc lập;

(iii) Tất cả các hành vi đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng BLHS (Tội trộm cắp tài sản, Tội cướp tài sản…), có thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau cùng một điều luật;

(iv) Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án…) và cùng đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án);

(v) Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu TNHS về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.

Thực tiễn xét xử các tội về chiếm hữu khi áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” còn có các quan điểm chưa thống nhất. Ví dụ: Phạm Văn T lợi dụng việc sửa chữa nhà trạm của các trạm phát sóng BTS Viettel tại xã H và xã C huyện N, tỉnh Đ. Do biết được mã số khóa, cũng như chìa khóa cửa của các trạm trên và việc sơ hở trong việc quản lý tài sản của Chi nhánh Viettel, T đã vào lấy trộm hai máy phát điện, cụ thể: Lần thứ nhất, ngày 30/5/2021, T lấy trộm một máy phát điện bán cho L với giá 09 triệu đồng; lần thứ hai, ngày 01/6/2021, T lấy trộm một máy phát điện khác và tiếp tục bán cho L với giá 08 triệu đồng. Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 30/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện N, tỉnh Đ xác định: 01 máy nổ phát điện ký hiệu HG 11000SĐX đã qua sử dụng giá trị 30 triệu đồng; 01 máy nổ phát điện KY08, 0KVA đã qua sử dụng giá trị là 54 triệu đồng. Tổng cộng hai máy là: 84 triệu đồng.

Tại bản án ngày 29/12/2021, Tòa án áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 quyết định hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Văn T.

Hiện nay có các quan điểm xử lý chưa thống nhất, cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” (điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015) đối với bị cáo T là chưa chính xác, vi phạm khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015. Bởi lẽ, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và tổng tài sản bị cáo chiếm đoạt nhiều lần có giá trị tổng cộng 84 triệu đồng. Từ việc cộng tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt nhiều lần, bị cáo mới bị truy tố theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng). Có thể hiểu, trong vụ án này phạm tội nhiều lần là nguyên nhân, là tiền đề để cơ quan tiến hành tố tụng xác định giá trị tài sản làm căn cứ để truy tố bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS. Do đó, tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS là yếu tố định khung hình phạt đối với bị cáo và không được coi là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa. Theo quan điểm này, tình tiết phạm tội 02 lần trở lên chỉ áp dụng khi giá trị tài sản chiếm đoạt của các lần phạm tội phải nằm trong cùng một khung hình phạt và cộng giá trị tài sản của các lần phạm tội này lại vẫn nằm trong khung hình phạt của các lần phạm tội. Việc Tòa án áp dụng thêm tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” là bất lợi cho bị cáo, gây mất công bằng trong xét xử.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án không vi phạm khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015. Bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác 02 lần, mỗi lần đều có giá trị trên mức tối thiểu quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (trên 02 triệu đồng) nên đủ yếu tố cấu thành tội phạm, do đó đã thỏa mãn dấu hiệu phạm tội 02 lần trở lên. Tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 không phải là yếu tố định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015. Do đó, bản án của Tòa án Y áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 đối với bị cáo T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Để áp dụng chính xác tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” cần phân biệt “phạm tội nhiều lần và “phạm tội liên tục”. Phạm tội liên tục là tội phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng loại, xảy ra kế tiếp nhau và có tính liên tục, mà các hành vi đó có cùng mục đích chung, thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và sự tổng hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội phạm độc lập (Ví dụ: Tội hành hạ hoặc ngược đãi cha mẹ, vợ chồng, con cái; Tội bức tử…). Trong tội liên tục, người phạm tội đã thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau, nhưng nếu tách riêng từng hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thì có hành vi đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập, cũng có hành vi không đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập được quy định tại một điều luật tương ứng, nhưng nó là tội phạm thống nhất và khi tổng hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó cũng chỉ cấu thành một tội phạm độc lập (gọi là phạm tội liên tục). Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử cũng có trường hợp nhầm lẫn giữa “phạm tội 02 lần trở lên” và “phạm tội liên tục”.

Ví dụ: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04/5/2021, Phạm Văn C (sinh năm 1994) đi xe mô tô trên đường thì gặp cháu Võ Thị N (sinh ngày 16/4/2009) đi bộ một mình. C làm quen và chở cháu N đến sân kho Hợp tác xã nông nghiệp xã A và thực hiện hành vi giao cấu. Tuy nhiên, do thấy phòng làm việc của Hợp tác xã có người rọi đèn pin nên C dừng giao cấu và chở cháu N đến đoạn đường vắng sau Trạm y tế xã A để tiếp tục thực hiện hành vi. Sau đó, C chở cháu N về thì bị phát hiện. C bỏ trốn đến ngày 10/5/2021 mới ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Phạm Văn C phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS; cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS để xử phạt bị cáo Phạm Văn C từ 14 đến 15 năm tù.

Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo C thuộc trường hợp tội liên tục vì với một khoảng thời gian ngắn như vậy bị cáo thực hiện hành vi giao cấu hai lần với cháu N, hai lần giao cấu có tính liên tục, kế tiếp nhau nên việc áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS để xử lý hành vi phạm tội của C là không có cơ sở.

Chúng tôi cho rằng, đối với Tội hiếp dâm, chỉ cần người phạm tội có hành vi giao cấu là phạm tội hiếp dâm mà không đòi hỏi người phạm tội phải kết thúc về mặt sinh lý mới cấu thành Tội hiếp dâm. Do đó, phải áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 đối với Phạm Văn C.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Một là, cần ghi nhận khái niệm “tình tiết tăng nặng TNHS” vào khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 để có cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thống nhất, chính xác các tình tiết tăng nặng TNHS, phân biệt tình tiết tăng nặng TNHS với tình tiết định tội, định khung hình phạt, theo đó, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong BLHS với tính chất là tình tiết tăng nặng chung và là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.

Hai là, cần hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 theo hướng: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội được hiểu là việc người có chức vụ, quyền hạn dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.

Ba là, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”, cụ thể như sau: “Phạm tội 02 lần trở lên là có từ hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm (các lần phạm tội đó có thể nằm cùng một khung hoặc khác khung hình phạt của một điều luật) chưa bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, nay các lần phạm tội đó được xét xử trong cùng một bản án”.

Lê Đình Nghĩa - Dương Thị Hồng Thuận

Những vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

(Kiemsat.vn) - Các tranh chấp dân sự liên quan đến tài sản chung, di sản thừa kế, giao dịch làm phát sinh quyền sở hữu tài sản là những tranh chấp phổ biến và khá phức tạp hiện nay. Để làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án liên quan đến những tranh chấp này, tác giả trao đổi một số kỹ năng cơ bản trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật và đưa ra một số lưu ý đối với Kiểm sát viên trong một số trường hợp cụ thể.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang