Ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án - thực trạng và giải pháp

29/09/2025 10:44

(kiemsat.vn)
Nghiên cứu, đánh giá việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án cho thấy, bên cạnh những ưu điểm, việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án còn một số sai sót.

Qua hơn 03 năm triển khai thi hành, Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án (HGĐTTTA) năm 2020 đã đi vào cuộc sống và ngày càng khẳng định là mô hình nhân văn, với phương thức thân thiện, cảm thông, chia sẻ đã giúp giải quyết triệt để nhiều tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử1. Theo thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao, trong 03 năm, từ 01/01/2021 đến 30/9/2023, tổng số vụ việc dân sự được đưa ra hòa giải là 280.939, tổng số vụ việc hòa giải thành là 163.059, đạt tỉ lệ hơn 58%2. Việc hòa giải thành đã giúp Tòa án các cấp không phải xét xử 163.059 vụ việc và tập trung giải quyết các vụ việc không được hòa giải hoặc hòa giải không thành. Nghiên cứu, đánh giá việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án cho thấy, bên cạnh những ưu điểm, việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án còn một số sai sót.

1. Tình hình thực hiện quy định về ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án

1.1. Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án trong trường hợp hòa giải đoàn tụ

Theo khoản 6 Điều 40 Luật HGĐTTTA năm 2020, trường hợp người nộp đơn khởi kiện rút đơn khởi kiện thì chấm dứt hòa giải tại Tòa án. Tuy nhiên, trong thực tiễn đã có cách hiểu và áp dụng khác nhau về việc Tòa án có ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án trong trường hợp hòa giải đoàn tụ hay không. Vì vậy, để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật về hòa giải tại Tòa án, Mục 35 Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC ngày 01/7/2021 của TAND tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ về hòa giải, đối thoại tại Tòa án (giải đáp số 01/2021) đã hướng dẫn trường hợp người nộp đơn khởi kiện rút đơn khởi kiện như sau: Khi Hòa giải viên tiến hành hòa giải mà người nộp đơn khởi kiện rút đơn khởi kiện thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết, không tổ chức phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành.

Qua nghiên cứu các quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, tác giả thấy rằng, mặc dù đã có hướng dẫn của TAND tối cao như phân tích ở trên, nhưng trong nhiều trường hợp thông qua hòa giải, người nộp đơn khởi kiện đã rút đơn khởi kiện mà Hòa giải viên vẫn tổ chức phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành và Tòa án vẫn ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án (ví dụ: Tranh chấp ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn G theo Quyết định số 23/2023/QĐCNTT ngày 01/02/2023 của TAND huyện Q, thành phố Hà Nội; tranh chấp ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc Q và ông Nguyễn Phan Hồng V theo Quyết định số 41/2022/QĐCNHGT-HNGĐ ngày 10/02/2022 của TAND quận C, thành phố Đà Nẵng; tranh chấp bồi thường thiệt hại do bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động giữa người khởi kiện là ông Nguyễn MT, người bị kiện là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu BHX…). Sai sót về nội dung này tương đối phổ biến trong thực tiễn.

 1.2. Tòa án không xem xét đầy đủ các điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật HGĐTTTA năm 2020, thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền: (1) Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành đã được ghi tại biên bản; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Hết thời hạn 15 ngày, Thẩm phán phải ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành nếu kết quả hòa giải có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 Luật này.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quyết định giải quyết đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án cho thấy, đã có quyết định công nhận kết quả hòa giải thành bị Tòa án cấp trên hủy theo Điều 39 Luật HGĐTTTA năm 2020, như phân tích dưới đây:

Ví dụ: Tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S (Ngân hàng S) và ông Biện Quốc D, bà Trần Thị H, ông Biện Quốc T, bà Biện Thị Như P. Tranh chấp của các bên được hòa giải thành và TAND thị xã N đã ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành số 04/2022/QĐCNTT-DS ngày 17/10/2022 (Quyết định số 04/2022/QĐCNTT-DS), trong đó có việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 776 và thửa đất số 294 để trả nợ cho Ngân hàng S. Ngày 09/5/2023, ông H có đơn đề nghị xem xét lại Quyết định số 04/2022/QĐCNTT-DS.

Theo Quyết định số 01/2023/QĐKCNHGT ngày 15/8/2023, TAND tỉnh K đã hủy Quyết định số 04/2022/QĐCNTT-DS với lý do: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I321788 cấp ngày 27/02/1998 cho hộ ông D và bà H đối với 08 thửa đất, trong đó có thửa đất số 776 diện tích 680m2 và thửa đất số 294 diện tích 305m2; theo đơn đăng ký quyền sử dụng đất năm 1997 của ông D đối với thửa đất số 776 và thửa đất số 294, thì hộ ông D có 10 nhân khẩu. Việc Hòa giải viên, Thẩm phán của TAND thị xã N, tỉnh K ghi nhận kết quả hòa giải thành giữa các bên, trong đó có liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 776 và thửa đất số 294, đã không làm rõ việc Ủy ban nhân dân thị xã N cấp quyền sử dụng đất cho những nhân khẩu nào để đưa những người này vào tham gia hòa giải là vi phạm Điều 33 Luật HGĐTTTA năm 2020.

Tác giả đồng tình với Quyết định số 01/2023/QĐKCNHGT ngày 15/8/2023 của TAND tỉnh K. Bởi vì, thửa đất số 776 và thửa đất số 294 đứng tên hộ gia đình ông D và bà H. Theo đơn đăng ký quyền sử dụng đất năm 1997 của ông D đối với thửa đất số 776 và thửa đất số 294, thì hộ ông D có 10 nhân khẩu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông D và bà H. Theo khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015, “việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Như vậy, khi thế chấp tài sản là nhà đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của ông D, bà H, ông T, bà P tại Ngân hàng S, phải có ý kiến của tất cả các thành viên hộ ông D và bà H. Vì vậy, khi tiến hành hòa giải vụ việc trên, Hòa giải viên phải làm rõ tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I321788, hộ ông D và bà H gồm những ai, họ có ý kiến đầy đủ về việc thế chấp nhà đất hay không, để từ đó đưa đầy đủ họ vào tham gia hòa giải theo khoản 6 Điều 2, khoản 1 Điều 25 Luật HGĐTTTA năm 2020.

Sai sót nêu trên xuất phát từ việc Hòa giải viên không nắm vững các quy định của pháp luật chuyên ngành về thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, dẫn đến việc đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia hòa giải tại Tòa án. Thẩm phán phụ trách hòa giải cũng có sai sót trong việc không kiểm tra kỹ các điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án, không phát hiện việc kết quả hòa giải thành đã vi phạm khoản 5 Điều 33 Luật HGĐTTTA năm 2020, nên đã ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành không đúng. Nếu không được khắc phục kịp thời, Quyết định số 04/2022/QĐCNTT-DS sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên hộ ông D và bà H không được tham gia hòa giải tại Tòa án.

1.3. Ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn là không phù hợp với Điều 33 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020

Theo Mục 3 Phần III Hướng dẫn quy trình hòa giải, đối thoại theo Luật HGĐTTTA ban hành kèm theo Chỉ thị số 02/2022/CT-CA ngày 14/3/2022 của TAND tối cao về tăng cường công tác hòa giải, đối thoại theo Luật HGĐTTTA, “đối với hòa giải thành về thuận tình ly hôn, Hòa giải viên cần giải thích và hướng dẫn các bên yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và nêu nội dung yêu cầu vào biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành để Tòa án xem xét ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn”. Tại Công văn số 235/TANDTC-PC ngày 31/12/2021 về một số biểu mẫu về quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành (Công văn số 235), TAND tối cao cũng đã ban hành Mẫu số 03-QĐHG - Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án (Mẫu số 03-QĐHG).

Trong thực tiễn, đa số Tòa án dựa vào hướng dẫn nêu trên để ra “quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án”, mà không ra “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án” theo Điều 34 Luật HGĐTTTA năm 2020, chẳng hạn: Quyết định số 04/2024/QĐCNHGT ngày 02/5/2024 của TAND thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Quyết định số 93/2024/QĐCNTTLH ngày 06/5/2024 của TAND huyện C, tỉnh Bình Phước; Quyết định số 06/2024/QĐ-CNTTLH ngày 02/02/2024 của TAND huyện T, tỉnh Phú Thọ… Tuy nhiên, cũng có Tòa án ra “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án”, mà không ra “quyết định công nhận thuận tình ly hôn” đối với hòa giải thành thuận tình ly hôn, chẳng hạn: Quyết định số 15/2022/QĐCNĐTT-HNGĐ ngày 18/4/2022; Quyết định số 18/2022/QĐCNĐTT-HNGĐ ngày 29/4/2022 của TAND quận C, thành phố Hà Nội…

Thực trạng trên không phải là sai sót của Thẩm phán phụ trách hòa giải, cũng không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên, nhưng đã tạo sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng Luật HGĐTTTA năm 2020. Tác giả cho rằng, Mục 3 Phần III Hướng dẫn quy trình hòa giải, đối thoại và Mẫu số 03-QĐHG là chưa phù hợp với Luật HGĐTTTA năm 2020. Bởi vì, việc thuận tình ly hôn cũng là hòa giải thành thông qua hòa giải tại Tòa án, khi đã hòa giải thành và lập biên bản ghi nhận kết quả, theo đề nghị của các bên thì Tòa án sẽ ra “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án” theo Điều 34 Luật HGĐTTTA năm 2020. Luật HGĐTTTA năm 2020 không quy định về “quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án” như Mẫu số 03-QĐHG. Trong trường hợp này, Tòa án cần ra “quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án” (Mẫu số 01-QĐHG ban hành kèm theo Công văn số 235) và trong nội dung của quyết định sẽ công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án nhằm phù hợp với Luật HGĐTTTA năm 2020 và bản chất của vụ việc.

1.4. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án có nội dung không đúng hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao

Theo Mẫu số 01-QĐHG về quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án ban hành kèm theo Công văn số 235, phần “Quyết định” gồm 02 nội dung là: (1) Công nhận kết quả hòa giải thành của các bên; (2) Hiệu lực của quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có nhiều quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án có thêm một số nội dung khác, cụ thể như sau:

Thứ nhất, có nhiều quyết định bổ sung nội dung về chi phí hòa giải tại Tòa án. Rõ ràng, việc bổ sung nội dung về chi phí hòa giải tại Tòa án vào quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án là không đúng Mẫu số 01-QĐHG. Tuy nhiên, sai sót này không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bởi vì theo khoản 2 Điều 8 Nghị định số 16/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp và việc quản lý, sử dụng chi phí HGĐTTTA và thù lao Hòa giải viên tại Tòa án: Đối với vụ việc hòa giải thành, việc xử lý chi phí hòa giải được tiến hành tại phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành. Tác giả cho rằng, việc xác định chi phí hòa giải của các bên cần được thể hiện tại một văn bản có giá trị bắt buộc đối với các bên, tương tự việc quyết định về án phí và chi phí tố tụng được quyết định tại bản án, quyết định dân sự của Tòa án. Do đó, việc Mẫu số 01-QĐHG chưa có nội dung về chi phí hòa giải tại Tòa án là chưa hợp lý. Nói cách khác, việc bổ sung nội dung về chi phí hòa giải tại Tòa án vào quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án là phù hợp với thực tiễn.

Thứ hai, một số quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải bổ sung nội dung về giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn của các bên đã thuận tình ly hôn.

Việc bổ sung nội dung về giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn của các bên đã thuận tình ly hôn là không đúng Mẫu số 01-QĐHG, nhưng cũng không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc tuyên giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn của hai bên ly hôn là không cần thiết, vì quan hệ hôn nhân của hai bên chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo khoản 1 Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; bản án, quyết định của Tòa án cho hai bên ly hôn có hiệu lực thì đương nhiên giấy chứng nhận kết hôn của hai bên cũng hết hiệu lực.

2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật

Về hình thức, hiện nay, các biểu mẫu được sử dụng trong quá trình HGĐTTTA theo Điều 7 Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16/11/2020 của TAND tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của TAND trong hoạt động HGĐTTTA (Thông tư số 02/2020 - bao gồm 22 biểu mẫu) - Thông tư này là một văn bản quy phạm pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đến nay, TAND tối cao đã hướng dẫn bổ sung 06 biểu mẫu theo Công văn số 235, nhưng đây chỉ là văn bản hành chính thông thường, không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nên chưa phù hợp với khoản 1 Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020, không thống nhất với việc ban hành biểu mẫu theo văn bản quy phạm pháp luật. Về nội dung, Mẫu số 03-QĐHG về quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án không phù hợp với Điều 34 Luật HGĐTTTA năm 2020 tạo sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật; nội dung quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án chưa có quyết định về chi phí hòa giải tại Tòa án là chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, trong thời gian tới, tác giả kiến nghị TAND tối cao cần sửa đổi, bổ sung Điều 7 Thông tư số 02/2020 theo hướng:

- Bổ sung vào Điều 7 Thông tư số 02/2020 04 biểu mẫu theo Công văn số 235 là: (1) Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án; (2) Quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án; (3) Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành tại Tòa án; (4) Quyết định không công nhận kết quả đối thoại thành tại Tòa án; đồng thời, không quy định mẫu quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án, quyết định không công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án.

- Bổ sung nội dung về chi phí hòa giải tại Tòa án vào phần “quyết định” của biểu mẫu quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án.

2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

Thứ nhất, cần nâng cao kỹ năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Hòa giải viên và Thẩm phán phụ trách hòa giải.

Đánh giá nguyên nhân của các sai sót đã nêu cho thấy, các sai sót trong quá trình ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án cơ bản xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của Hòa giải viên và Thẩm phán phụ trách hòa giải. Vì vậy, trong thời gian tới, TAND tối cao cần tăng cường tập huấn chuyên sâu về hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án cho đội ngũ Hòa giải viên, nhất là đội ngũ Hòa giải viên mới được bổ nhiệm. Việc tập huấn cần tập trung vào các nội dung sau: (1) Quy định của Luật HGĐTTTA năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật đất đai năm 2024, Luật nhà ở năm 2023…; (2) Kỹ năng, phương pháp hòa giải từng loại vụ việc, đặc biệt là đối với các vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai, nhà ở, tranh chấp về tài sản khác đang gia tăng hiện nay. Đồng thời, để nâng cao trách nhiệm, chuẩn mực đạo đức, ứng xử của Hòa giải viên, TAND tối cao cần sớm hoàn thiện, ban hành và tổ chức thực hiện tốt Quy tắc đạo đức và ứng xử của Hòa giải viên tại Tòa án.

Thứ hai, tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc kiểm sát hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án.

Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tăng cường vai trò kiểm sát quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án, trong đó tập trung phân công Kiểm sát viên thực hiện công tác kiểm sát quyết định công nhận kết quả hòa giải thành; kiểm sát thẩm quyền của Tòa án tiến hành hòa giải; kiểm sát về thời hạn ra quyết định, nội dung quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án; kiểm sát việc chấp hành thời hạn gửi quyết định. Nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện tại Điều 33 của Luật HGĐTTTA năm 2020 thì cần kịp thời kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án theo Điều 36, Điều 37 Luật này.

Thứ ba, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của người dân, doanh nghiệp về hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án.

“Về nguyên tắc, chỉ những ai hiểu được quyền của mình mới có hành động phù hợp để bảo vệ các quyền đó”. Vì vậy, người dân, doanh nghiệp cần hiểu rõ các quy định của Luật HGĐTTTA năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình hòa giải. Chẳng hạn, đối với tình huống đã nêu tại tiểu mục 1.1, nếu các bên nắm vững quy định của Luật HGĐTTTA năm 2020 thì sẽ yêu cầu Hòa giải viên chấm dứt hòa giải khi họ rút đơn khởi kiện, mà không đề nghị Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành trong biên bản ghi nhận kết quả hòa giải. Để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của người dân, doanh nghiệp về hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa án, cần đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số, mạng xã hội trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; trong đó cần phát huy sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.

Tạ Đình Tuyên

Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng

(Kiemsat.vn) - Bài viết phân tích những vướng mắc, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; thẩm quyền điều tra; các biện pháp điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn; từ đó, đưa ra một số kiến nghị đề xuất để hoàn thiện pháp luật.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang