Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng

26/09/2025 15:51

(kiemsat.vn)
Bài viết phân tích những vướng mắc, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; thẩm quyền điều tra; các biện pháp điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn; từ đó, đưa ra một số kiến nghị đề xuất để hoàn thiện pháp luật.

1. Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn Bộ đội biên phòng

Một là, về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm:

Tại điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) quy định: Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.

Điểm b khoản 3 Điều 39 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án.

Như vậy, theo các quy định trên, khi tiến hành giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, Bộ đội biên phòng (BĐBP) có thẩm quyền tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố nhưng không có thẩm quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, Điều 149 BLTTHS năm 2015 quy định: “… Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền ra quyết định phục hồi quyết định giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố”. Như vậy có thể thấy rằng, quy định pháp luật ở nội dung này chưa thống nhất.

Mặt khác, tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: “Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình”. Quy định trên cho thấy, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trong đó có BĐBP) chỉ được giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm mà không có thẩm quyền giải quyết kiến nghị khởi tố. Như vậy, quy định của pháp luật đã có sự mâu thuẫn giữa Điều 39 với Điều 145, Điều 149 BLTTHS năm 2015 về nội dung giải quyết nguồn tin về tội phạm theo chức năng của BĐBP. Điều này đã dẫn đến sự không thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp ở mỗi địa phương, thậm chí có quan điểm cho rằng BĐBP không có thẩm quyền kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm. Điều này gây nhiều khó khăn cho lực lượng BĐBP khi giải quyết các nguồn tin báo từ quần chúng nhân dân trong khu vực quản lý.

Hai là, về áp dụng biện pháp ngăn chặn:

Điểm e khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015 quy định BĐBP có thẩm quyền “quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này”.

Tuy nhiên, Điều 125 BLTTHS năm 2015 quy định về hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn như sau: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác”. Điều luật trên hoàn toàn không quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trong đó có BĐBP) được quyền hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn. Việc quy định được quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhưng không có quyền hủy bỏ, thay thế những biện pháp này khi cần thiết là vấn đề đặt ra khiến các cơ quan BĐBP lúng túng trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Đặc biệt, đối với các tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì BĐBP được quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn (khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015) nhưng đối với các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì BĐBP lại không có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn do khoản 3 Điều 39 BLTTHS năm 2015 không quy định. Điều này gây ra vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật của lực lượng BĐBP khi thực hiện nhiệm vụ, mặc dù phát hiện, thu thập đầy đủ chứng cứ làm căn cứ để giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhưng không có cơ sở pháp lý để thực hiện, làm mất đi tính ngăn chặn tội phạm, không kịp thời thu giữ các dấu vết của tội phạm dẫn đến đối tượng có thể tiêu hủy chứng cứ, bỏ trốn… gây khó khăn cho quá trình điều tra sau này, đặc biệt là các vụ án về ma túy.

Ba là, về thẩm quyền điều tra của lực lượng BĐBP:

Khoản 1 Điều 164 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì các cơ quan của BĐBP có nhiệm vụ, quyền hạn: “Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự”.

Theo điểm a khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì “Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XIII và các điều 150, 151, 152, 153, 188, 189, 192, 193, 195, 207, 227, 235, 236, 242, 247, 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256, 303, 304, 305, 306, 309, 330, 337, 338, 346, 347, 348, 349 và 350 của Bộ luật Hình sự xảy ra trong khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và các vùng biển do Bộ đội biên phòng quản lý thì...”.

Các quy định trên đã giới hạn cụ thể những loại tội phạm mà BĐBP có thẩm quyền điều tra. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều cách hiểu về “chứng cứ rõ ràng” dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

Bên cạnh đó, BLTTHS và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự chỉ đưa ra nội dung về quyền hạn điều tra trong những trường hợp phạm tội nêu trên nhưng không quy định khi các điều kiện áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 hay khoản 1 Điều 164 BLTTHS năm 2015 không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp trên nhưng trong quá trình điều tra có căn cứ tạm đình chỉ điều tra theo Điều 229 BLTTHS năm 2015 thì BĐBP giải quyết theo trình tự nào (ví dụ như bị can trốn không biết bị can đang ở đâu...). Trên thực tế, điều luật chỉ quy định Cơ quan điều tra tạm đình chỉ điều tra, còn các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như BĐBP chưa được quy định.

Ngoài ra, quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của BĐBP còn chưa cụ thể, điều này khiến cho việc xác định chính xác hành vi thuộc thẩm quyền điều tra, xử lý của lực lượng BĐBP gặp khó khăn. Chẳng hạn như Tội vi phạm các quy định về xuất, nhập cảnh (Điều 347) quy định “Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép…, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Điều luật chưa mô tả cụ thể về hành vi khách quan “xuất cảnh, nhập cảnh” là như thế nào, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.

Mặt khác, liên quan đến các vụ án phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, tội phạm ít nghiêm trọng, BLTTHS cho phép áp dụng thủ tục rút gọn để điều tra, truy tố, xét xử nếu đảm bảo đủ căn cứ quy định tại Điều 456. Tuy nhiên, Điều 457 Bộ luật này quy định về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì lại không đề cập đến BĐBP mà chỉ có các chủ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cụ thể:  “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại Điều 456 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn…”.

Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn liên quan đến công tác phòng chống tội phạm ở tuyến biên giới, BĐBP là lực lượng chủ chốt trong công tác quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia nên nhiều vụ việc bắt giữ vận chuyển pháo nổ, thuốc lá nhập lậu... qua biên giới với số vụ và số lượng tang vật rất lớn nhưng khó khăn trong quá trình xử lý, bởi lẽ tại khoản 4 Điều 164 BLTTHS năm 2015 và khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 không quy định BĐBP có thẩm quyền điều tra với Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191) BLHS năm 2015.

Đối với các hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ hàng cấm là pháo nổ, thuốc lá trước đây được quy định ở Tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới tại Điều 153, Điều 154 BLHS năm 1999; theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì BĐBP có thẩm quyền điều tra. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 quy định những hành vi trên tại Điều 190, Điều 191 và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 cũng không quy định BĐBP có thẩm quyền điều tra ban đầu đối với 02 tội danh này.

Do BĐBP không có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra đối với 02 tội danh trên nên thực tế, sau khi BĐBP bắt giữ, việc áp dụng pháp luật tố tụng ở mỗi địa phương là khác nhau; có quan điểm cho rằng, BĐBP lập biên bản tiếp nhận người phạm tội quả tang; lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi bàn giao, lập biên bản vụ việc, chuyển nguồn tin tội phạm cho Cơ quan điều tra xử lý. Quan điểm khác cho rằng, BĐBP không lập biên bản phạm tội quả tang, chỉ lập biên bản vụ việc do không có thẩm quyền điều tra. Điều này dẫn đến áp dụng pháp luật không thống nhất, là vướng mắc lớn nhất trong thời gian qua đối với BĐBP trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.

Bốn là, quyền hạn tiến hành các biện pháp điều tra:

Quá trình điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của mình, BĐBP được quyền tiến hành các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, vẫn còn gặp những vướng mắc trong quy định của pháp luật, cụ thể:

(i) Quy định không thống nhất về triệu tập bị can: Khoản 4 Điều 39 BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra thuộc cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo đó, Cán bộ điều tra có thẩm quyền hỏi cung bị can. Tuy nhiên, theo Điều 182 BLTTHS năm 2015 về triệu tập bị can thì chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên được gửi giấy triệu tập bị can và được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 182 Bộ luật này. Như vậy, Cán bộ điều tra của BĐBP không có quyền triệu tập bị can nhưng lại được hỏi cung bị can.

Mặt khác, theo điểm đ khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015 thì cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền “triệu tập và hỏi cung bị can...” nhưng khoản 4 Điều 182 BLTTHS năm 2015 không quy định có thẩm quyền triệu tập bị can; mặc dù các loại án mà BĐBP trực tiếp điều tra, chủ yếu là vụ án ít nghiêm trọng, đa phần các đối tượng phạm tội được tại ngoại (áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú).

(ii) Quy định về một số biện pháp điều tra như biện pháp khám xét (khoản 3 Điều 193 BLTTHS): “Trước khi khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm khám xét...”; biện pháp khám nghiệm hiện trường (khoản 1 Điều 201 BLTTHS): “Điều tra viên chủ trì tiến hành khám nghiệm...” còn nhiều cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho công tác điều tra của BĐBP vì khi khám xét, khám nghiệm hiện trường phải có Điều tra viên chủ trì. Thực tế, BĐBP phải có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra (Điều tra viên) thì mới tổ chức khám xét, khám nghiệm hiện trường. Điều này ảnh hưởng đến kết quả điều tra vụ án hình sự bởi các dấu vết ban đầu nếu không được khám nghiệm, thu giữ, bảo quản ngay dễ bị xáo trộn, mất khả năng thu thập nhất là hiện trường vụ án ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, khi Cơ quan điều tra chưa thể tiếp cận ngay.

(iii) Một số biện pháp điều tra mà BĐBP không được tiến hành: Khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định về các biện pháp BĐBP được quyền tiến hành điều tra không quy định về biện pháp điều tra đối chất, nhận dạng. Thực tiễn cho thấy, các vụ án hình sự liên quan đến các tội phạm về mua bán người, tội phạm về ma túy, xuất nhập cảnh trái phép thì các đối tượng, nạn nhân không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của đối tượng khác, chỉ nhận dạng được qua ảnh và các đối tượng sử dụng tên tuổi, địa chỉ giả; các đối tượng khai ban đầu mâu thuẫn với nhau mà đã tiến hành các biện pháp khác nhưng không giải quyết được, có trường hợp nạn nhân, đối tượng đề xuất đối chất với nhau để làm rõ lời khai của mình nhưng BĐBP không thể tiến hành được do luật chưa có quy định.

(iv) Khoản 2, khoản 3 Điều 39 BLTTHS và điểm a, b khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự không quy định BĐBP có thẩm quyền lấy lời khai pháp nhân. Tuy nhiên, tại Điều 442 BLTTHS quy định “việc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải do Điều tra viên, Cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện tại nơi tiến hành điều tra, tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc tại trụ sở của pháp nhân…”.

Bên cạnh đó, Điều 440 BLTTHS năm 2015 quy định “khi triệu tập người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải gửi giấy triệu tập”. Điều luật chỉ quy định chung chung là người có thẩm quyền tố tụng phải gửi giấy triệu tập, không quy định rõ những người nào được ký giấy triệu tập đại diện pháp nhân. Trong khi đó, theo điểm d khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2015 thì Điều tra viên có thẩm quyền triệu tập và lấy lời khai pháp nhân (các chức danh khác không được quy định). Đây là một nội dung vướng mắc bất cập rất lớn đối với lực lượng BĐBP, vì khi điều tra các tội danh về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 188, Điều 189 BLHS năm 2015) đối với vụ án có tính chất ít nghiêm trọng do pháp nhân phạm tội thì BĐBP không đủ nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện điều tra vụ án.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội biên phòng

Thứ nhất, cần nghiên cứu hoàn thiện quy định của pháp luật đối với BĐBP về hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm, cụ thể:

Bổ sung nội dung trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm, BĐBP được quyền phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhằm thống nhất với các quy định tại Điều 39, Điều 145 BLTTHS năm 2015. Mặt khác, theo quan điểm của tác giả, quyền hạn của BĐBP trong giải quyết nguồn tin về tội phạm chỉ nên giới hạn ở việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đối với kiến nghị khởi tố thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là phù hợp. Như vậy, điểm b khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015 nên sửa theo hướng sau: Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.

Điểm b khoản 3 Điều 39 BLTTHS năm 2015 nên được sửa theo hướng sau: Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án;

Bên cạnh đó, cần sửa đổi nội dung Điều 149 BLTTHS năm 2015 theo hướng tách bạch nội dung phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đảm bảo tính thống nhất giữa các điều luật, cụ thể: “… Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra quyết định phục hồi quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền ra quyết định phục hồi quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”.

Thứ hai, cần bổ sung nội dung quy định đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 125 BLTTHS năm 2015 theo hướng: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác”.

Bên cạnh đó, bổ sung quyền hạn được áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tại khoản 3 Điều 39 BLTTHS năm 2015 theo hướng quy định một số biện pháp ngăn chặn được quyền áp dụng trước khởi tố vụ án hình sự, cụ thể: “Khi tiến hành tố tụng hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, những người được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 35 của Bộ luật này có những nhiệm vụ, quyền hạn:

đ. Áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ theo quy định”.

Thứ ba, hoàn thiện một số nội dung liên quan đến thẩm quyền điều tra, theo đó:

Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 39; điểm a khoản 1 Điều 164 BLTTHS năm 2015 theo hướng: Bổ sung cụm từ “sự việc phạm tội đơn giản” sau cụm từ “... phạm tội quả tang”.

Bổ sung chủ thể “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” bên cạnh “Cơ quan điều tra” tại khoản 1 Điều 229 BLTTHS năm 2015 theo hướng mở rộng phạm vi chủ thể có quyền ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, cụ thể:

“Điều 229. Tạm đình chỉ điều tra

1. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:…”.

Cần sửa đổi Điều 457 BLTTHS năm 2015 quy định BĐBP có thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn đảm bảo tính thống nhất trong nội dung các điều luật.

Bên cạnh đó, trong quá trình tiến hành điều tra các vụ án đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp cần tăng thời hạn tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu. Bởi vì, thời hạn điều tra ban đầu chỉ 07 ngày (điểm b khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015), BĐBP gặp rất nhiều khó khăn để củng cố tài liệu, chứng cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn, hoàn thiện hồ sơ hết thời hạn điều tra bàn giao cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Theo tác giả, cần quy định BĐBP được quyền tiến hành điều tra ban đầu không quá 14 ngày kể từ ngày tiếp nhận nguồn tin về tội phạm phải chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Hơn nữa, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh các vụ án trên tuyến biên giới của BĐBP, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét bổ sung Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191 BLHS năm 2015) vào thẩm quyền điều tra của BĐBP được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

Thứ tư, kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2015 và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 tăng thẩm quyền cho BĐBP đáp ứng yêu cầu đấu tranh với tội phạm tuyến biên giới như: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trong, đặc biệt nghiêm trọng và ít nghiêm trọng nhưng phức tạp để thống nhất giữa BLTTHS và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự; sửa đổi nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra thuộc cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra cho phù hợp với các quy định của biện pháp điều tra khám nghiệm hiện trường, khám xét, triệu tập bị can, lấy lời khai pháp nhân, triệu tập pháp nhân... hoặc giữ nguyên quy định về các biện pháp điều tra hiện nay như đã phân tích ở trên (khám nghiệm hiện trường, khám xét,...) tuy nhiên, cần có cơ chế phối hợp cụ thể, rõ ràng để tạo cơ sở cho quá trình tiến hành các biện pháp điều tra nói trên ở các khu vực biên giới, hẻo lánh.

Đào Minh Hiếu

Về tranh chấp thiết bị nội thất trong hợp đồng chuyển nhượng nhà đất

(Kiemsat.vn) - Khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, cần chú ý trong hợp đồng chuyển nhượng các bên đã thỏa thuận về các vấn đề liên quan đến nội thất, thiết bị trong nhà là rất cần thiết, tránh những tranh chấp không đáng khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang