Những vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
(kiemsat.vn) Các tranh chấp dân sự liên quan đến tài sản chung, di sản thừa kế, giao dịch làm phát sinh quyền sở hữu tài sản là những tranh chấp phổ biến và khá phức tạp hiện nay. Để làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án liên quan đến những tranh chấp này, tác giả trao đổi một số kỹ năng cơ bản trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật và đưa ra một số lưu ý đối với Kiểm sát viên trong một số trường hợp cụ thể.
Bảo vệ lợi ích cộng đồng dưới góc nhìn của việc chi trả bảo hiểm y tế đối với khám sàng lọc bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam hiện nay
Về tranh chấp thiết bị nội thất trong hợp đồng chuyển nhượng nhà đất
Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng
1. Kỹ năng kiểm sát giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
1.1. Về tố tụng
- Kiểm sát viên cần xác định các loại tranh chấp về thừa kế như:
Tranh chấp về quyền thừa kế (quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác); tranh chấp thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật; tranh chấp về di sản thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất; tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
Lưu ý các tài liệu để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 như: Di chúc (nếu có), giấy chứng tử, giấy khai sinh, sơ yếu lý lịch, các giấy tờ, tài liệu liên quan đến di sản…
- Xác định thẩm quyền của Tòa án:
Nắm vững các quy định pháp luật, gồm: Khoản 5 Điều 26; các điều 35, 37, 39, 40, 68; các điều 469, 470, 471, 472 BLTTDS năm 2015; Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề về dân sự, tố tụng dân sự; Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.
Khi nghiên cứu các quy định này, Kiểm sát viên cần lưu ý phân biệt rõ thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
- Xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:
Các văn bản ra đời trước năm 2015 đều có nội dung thống nhất về thời hiệu khởi kiện là 10 năm và thời điểm tính thời hiệu khởi kiện là từ khi mở thừa kế.
Điều 623 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản…”.
Về vấn đề này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Án lệ số 26/2018 về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. Tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: Kể từ ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự (Nghị quyết số 02/2016) và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế, cụ thể là: Thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
- Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện:
Được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990, điểm c, d Mục 10 Nghị quyết số 02/2016; BLDS năm 1995 (Điều 170); BLDS năm 2005 (Điều 161); BLDS năm 2015 (Điều 156).
1.2. Về nội dung
- Giải quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất: Khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, ngoài việc áp dụng những quy định của BLDS về thừa kế còn phải áp dụng những quy định của pháp luật đất đai.
- Phân biệt các loại di sản:
Di sản là hiện vật và tiền sẵn có của người để lại di sản trước khi chết.
Di sản là tài sản hình thành trong tương lai: Đây là loại tài sản chưa có tại thời điểm mở thừa kế, nhưng sẽ phát sinh trong quá trình sử dụng vốn, tài sản của người để lại di sản. Tài sản này sẽ được hình thành sau khi người để lại di sản chết.
Di sản là quyền tài sản phát sinh từ việc Nhà nước giao các quyền tài sản, từ quan hệ hợp đồng và ngoài hợp đồng. Ví dụ: Quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ về những món tiền mà người chết đã cho vay khi còn sống, quyền đòi tiền làm thuê chưa trả hết cho người chết khi còn sống, quyền đòi bồi thường thiệt hại do người khác đã gây thiệt hại cho người để lại di sản khi người đó còn sống.
Di sản là quyền tài sản phát sinh sau khi người quá cố chết và do sự kiện chết đó. Ví dụ: Trong hợp đồng bảo hiểm tính mạng hoặc bảo hiểm nhân thọ, nếu khi lập hợp đồng không nói rõ ai sẽ được hưởng số tiền bảo hiểm, thì khi người mua bảo hiểm bị chết, quyền đòi tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm trả thuộc di sản thừa kế của người mua bảo hiểm và những người thừa kế theo pháp luật có quyền hưởng. Còn trong hợp đồng bảo hiểm đã xác định rõ số tiền bảo hiểm thuộc về ai thì chỉ người đó có quyền yêu cầu chi trả tiền sau khi người mua bảo hiểm chết. Hành khách đi các phương tiện vận tải có bảo hiểm mà xảy ra tai nạn làm cho người đó chết, thì quyền yêu cầu cơ quan bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm thuộc di sản của hành khách đã chết đó.
Di sản không bao gồm những quyền tài sản gắn với nhân thân của người để lại di sản. Ví dụ: Quyền được hưởng lương hưu, trợ cấp thương tật, quyền được cấp dưỡng. Các loại tiền này chỉ được nhận cho đến thời điểm người đó chết, nên nếu trước đó chưa nhận được thì được nhận cho đến thời điểm người đó chết.
Kiểm sát viên cần lưu ý, khi xác định di sản của một người phải căn cứ vào thời điểm mở thừa kế (tức là khi người đó chết thì để lại tài sản gì; sau đó nếu người quản lý di sản chuyển nhượng di sản thì người quản lý di sản phải chịu trách nhiệm về việc chuyển nhượng đó); đồng thời, phải xem xét di sản hình thành trong tương lai. Đối với di sản là quyền sử dụng đất phải có giấy tờ chứng minh thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người để lại di sản (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013).
- Trường hợp di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân:
Theo Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân: Nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước. Người còn lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất phân chia nhà, đất. Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào. Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh tranh chấp. Trường hợp này phải xác định nhà, đất đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ có quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất. Khi giải quyết phải áp dụng Điều 208 về xác lập quyền sở hữu chung, Điều 209 về sở hữu chung theo phần, Điều 219 BLDS về chia tài sản thuộc sở hữu chung để giải quyết mà không áp dụng pháp luật về thừa kế.
- Thừa kế là quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi một phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện:
Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng. Vợ, chồng của người chết là người thừa kế theo pháp luật hàng thừa kế thứ nhất. Thực tế giải quyết tranh chấp có một số trường hợp xảy ra như sau:
Trường hợp thứ nhất: Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, một bên vợ hoặc chồng chết trước và thời hiệu khởi kiện để chia di sản thừa kế của người này đã hết, còn người vợ hoặc chồng chết sau vẫn còn thời hiệu khởi kiện, Tòa án chỉ chia phần di sản của người chết sau còn thời hiệu và công nhận di sản của người chết trước thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai; nếu không có người đang chiếm hữu thì di sản thuộc về Nhà nước.
Trường hợp thứ hai: Một bên vợ hoặc chồng chết trước đến nay đã hết thời hiệu khởi kiện, còn một bên vợ hoặc chồng vẫn đang quản lý toàn bộ quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, Tòa án công nhận di sản thuộc quyền sở hữu của người vợ hoặc chồng đang quản lý.
Trường hợp thứ ba: Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, một bên vợ hoặc chồng chết trước và thời hiệu khởi kiện để chia di sản thừa kế của người này đã hết, còn người vợ hoặc chồng chết sau vẫn còn thời hiệu khởi kiện, các con của họ yêu cầu chia di sản. Thời điểm còn sống người chết sau đã bán đi một phần di sản là bất động sản để lo cuộc sống chung của gia đình, trường hợp này di sản thừa kế xác định như sau:
Theo Án lệ số 16/2017/AL của Tòa án nhân dân tối cao về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng, di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã được chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.
- Thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình:
Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định về điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích; chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 740). Đối với hộ gia đình nếu trong hộ có thành viên chết, thì các thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng đất do Nhà nước giao cho hộ đó (Điều 744).
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của các thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của BLDS và pháp luật về đất đai (khoản 5 Điều 113 Luật đất đai năm 2003 và Điều 735 BLDS năm 2005). Điểm mới của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995 là bỏ quy định về điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp và không bắt buộc trong hộ gia đình có thành viên chết, thì quyền sử dụng đất của các thành viên đó phải để lại cho những người trong hộ. Do đó, người không có điều kiện sử dụng đất nông nghiệp và người không thuộc thành viên trong hộ gia đình cũng được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất.
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình mà dẫn chiếu đến pháp luật về đất đai. Điều 179 Luật đất đai năm 2013 quy định hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Như vậy, quy định này tương tự như quy định của BLDS năm 2005, người không có điều kiện sử dụng đất nông nghiệp và người không thuộc thành viên trong hộ gia đình cũng được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất.
- Giải quyết tranh chấp về thừa kế nhà ở:
- Trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1996:
Theo Điều 9 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991, đối với trường hợp thừa kế nhà ở, thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia thì căn cứ vào các quy định của pháp luật về thừa kế để giải quyết.
Đối với tranh chấp về thừa kế nhà ở, thời điểm mở thừa kế sau ngày 01/7/1991 đến trước ngày 01/7/1996 thì áp dụng Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và Pháp lệnh nhà ở năm 1991 để giải quyết.
Khi giải quyết những yêu cầu này, Kiểm sát viên cần chú ý đến việc tính thời hiệu như đã hướng dẫn ở mục trên.
- Trường hợp thời điểm mở thừa kế từ ngày 01/7/1991 đến trước ngày 01/7/2015:
Áp dụng BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và Luật nhà ở năm 2005 để giải quyết. Trong đó, cần lưu ý: Đối với nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất mà người thừa kế là một hoặc các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung còn lại thì những người này được thừa kế nhà ở đó theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trường hợp có người thừa kế không phải là chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất thì người thừa kế được thanh toán phần giá trị nhà ở mà họ được thừa kế.
Đối với nhà ở thuộc sở hữu chung theo phần thì phần nhà ở của người để lại thừa kế được chia cho những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; nếu nhà ở được bán để chia giá trị thì những người thừa kế được ưu tiên mua; nếu những người thừa kế không mua thì các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua phần thừa kế nhà ở đó và thanh toán cho những người thừa kế giá trị nhà ở đã mua.
- Trường hợp thời điểm mở thừa kế từ ngày 01/7/2015 đến nay:
Áp dụng BLDS năm 2005 (trước ngày 01/01/2017) hoặc BLDS năm 2015 (từ ngày 01/01/2017) và Luật nhà ở năm 2014 để giải quyết.
2. Một số lưu ý khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự về thừa kế tài sản
2.1. Kiểm sát tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập
- Xác định, những tài liệu liên quan đến quan hệ huyết thống: Giấy khai sinh, giấy chứng tử, sổ hộ khẩu, bản khai lý lịch; xác định thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền khởi kiện; hàng thừa kế, diện thừa kế.
- Những tài liệu liên quan về di sản: Theo Điều 612 BLDS năm 2015 thì di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác. Theo Điều 105 BLDS năm 2015 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Như vậy, di sản thuộc sở hữu riêng của người chết bao gồm: Các tư liệu sinh hoạt, tiền, vàng, bạc, nhà ở, vốn cổ phần, tư liệu sản xuất mà người đó sử dụng để tiến hành sản xuất kinh doanh, thành lập doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn góp vào công ty. Di sản thuộc sở hữu chung với người khác như phần được tặng cho chung, được thừa kế chung hoặc cùng mua chung với người khác, hoặc tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng.
- Những chứng cứ về một số nghĩa vụ của người để lại di sản để xác định đúng di sản:
+ Chứng cứ về nghĩa vụ trả nợ mà người chết để lại: Cần xem xét các chủ nợ của người chết có yêu cầu thanh toán các khoản nợ hay không? Nếu họ yêu cầu và đóng tiền tạm ứng án phí thì xem xét trong cùng vụ án, nếu họ chưa yêu cầu thì trước mắt tạm trích một phần di sản tương ứng với khoản nợ để tạm giao cho một trong các đồng thừa kế quản lý; khi nào họ đòi thì sẽ lấy phần đó ra trả (lưu ý là thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế theo Điều 623 BLDS).
+ Thu thập chứng cứ để xác định chi phí cho tang lễ và sau tang lễ của người để lại di sản: Các chi phí hợp lý thực tế theo phong tục của địa phương đã được chi phí phục vụ cho tang lễ của người chết và những chi phí sau tang lễ như bốc mộ, xây mộ…
+ Thu thập chứng cứ xác định chi phí bảo quản di sản, công sức của những người liên quan đến di sản đang tranh chấp: Chi phí thuê người trông nom di sản, bảo vệ di sản, quản lý di sản, giữ gìn giá trị của di sản…
- Những chứng cứ trong trường hợp di sản là bất động sản:
Cần xem người chết để lại những bất động sản nào? Giấy tờ liên quan về bất động sản; có ai đồng sở hữu bất động sản đó không? Đo vẽ kích thước, diện tích, đặc điểm… của bất động sản; xác định giá trị của bất động sản; xem xét có thể chia hiện vật cho các đồng thừa kế hay không? Sơ đồ nhà đất phải chi tiết, cụ thể, rõ ràng, tránh những cách hiểu khác nhau về vị trí, mốc giới.
Về định giá phải tuân thủ Điều 104 BLTTDS về thành phần Hội đồng định giá; giá trị tài sản do Hội đồng định giá quyết định phải theo giá thị trường giao dịch thực tế tại địa phương (tránh các sai sót như xác định giá theo khung giá; định giá nhưng không theo giá thị trường khi đương sự có yêu cầu; hoặc xét xử năm 2019, nhưng lại lấy giá từ năm 2010 mà không có chứng cứ xác định giá năm 2019 và giá năm 2010 là như nhau).
- Chứng cứ về di chúc: Trường hợp đương sự đề nghị phân chia di sản theo di chúc thì Tòa án cần thu thập chứng cứ về di chúc để xác định di chúc đó có hợp pháp hay không? Hợp pháp một phần hay toàn bộ…
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Do đó, nguyên đơn khởi kiện phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn phản đối yêu cầu của nguyên đơn phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải chứng minh về yêu cầu độc lập của mình, về nguyên tắc đương sự phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó. Tuy nhiên, các chứng cứ của đương sự đưa ra thường không đầy đủ hoặc có nhiều mâu thuẫn nên vai trò thu thập chứng cứ của Tòa án theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 97 BLTTDS là hết sức quan trọng. Vì vậy, Viện kiểm sát phải kiểm sát những chứng cứ Tòa án thu thập để đánh giá giải quyết vụ án một cách khách quan và đúng pháp luật.
2.2. Kiểm sát việc xác định người tham gia tố tụng
- Cần xác định đầy đủ những người thuộc hàng thừa kế theo thứ tự, nếu hàng thừa kế thứ nhất không còn thì xác định đến hàng thừa kế thứ hai, hàng thừa kế thứ ba... Cần lưu ý trường hợp một hoặc một số con của người để lại di sản chết thì cần xác định họ chết trước hay chết sau người để lại di sản để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Cần xác định xem quyền sử dụng đất đó có thế chấp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân nào không để đưa họ tham gia tố tụng. Thực tế xét xử cho thấy, một số trường hợp Tòa án không yêu cầu đương sự cung cấp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không biết đương sự đã thế chấp cho Ngân hàng nên không đưa họ vào tham gia tố tụng mà vẫn tuyên hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngân hàng.
2.3. Kiểm sát việc xem xét đánh giá công sức đóng góp của người quản lý di sản
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu về thừa kế…), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức (Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao).
2.4. Kiểm sát việc tính án phí
- Phải xem xét, hướng dẫn cho người được chia, được hưởng di sản là người cao tuổi làm các thủ tục để được miễn án phí.
- Đối với các trường hợp giảm án phí cần thực hiện đúng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết số 326/2016), đó là: Khi đương sự thuộc trường hợp được giảm nộp tạm ứng án phí nhưng bản án sơ thẩm giao cho đương sự sở hữu, sử dụng tài sản có giá trị lớn thì cần xác định đương sự không thuộc trường hợp được giảm án phí.
- Người được miễn án phí thì chỉ được miễn án phí đối với phần di sản họ được chia, được hưởng; không được miễn án phí cả phần thừa kế của những người khác tặng cho (khoản 3 Điều 12 Nghị quyết 326/2016).
3. Một số lưu ý đối với các giao dịch hợp đồng làm phát sinh quyền sở hữu tài sản trong một số trường hợp cụ thể
- Đối với quyền thừa kế đối với quyền thuê, mua hóa giá nhà:
Theo Án lệ số 31/2020/AL của Tòa án nhân dân tối cao về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về quyền tài sản: Cá nhân được diện mua nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở mà khi còn sống, người đó chưa làm thủ tục mua hóa giá theo quy định của pháp luật. Trường hợp này phải xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước là quyền tài sản và được chuyển giao cho các thừa kế của người đó.
- Tranh chấp đòi tài sản là di sản thừa kế do người khác quản lý, sử dụng:
Nếu người khởi kiện với bên bị kiện (người đang chiếm giữ di sản) đều là người thừa kế theo pháp luật và ở cùng hàng thừa kế: Trường hợp thời hiệu còn hoặc đã hết nhưng không ai yêu cầu xem xét thời hiệu thì giải quyết quan hệ thừa kế theo thủ tục chung; nếu thời hiệu đã hết và đương sự có yêu cầu xem xét về thời hiệu thì căn cứ điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS để quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Nếu bên bị kiện không thuộc diện được hưởng thừa kế thì đó không phải là quan hệ tranh chấp về thừa kế, không phụ thuộc vào thời hiệu khởi kiện nhưng bị chi phối bởi thời hiệu hưởng quyền dân sự. Trường hợp này nếu chưa hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế hoặc đã hết thời hiệu nhưng không ai yêu cầu xem xét thì chấp nhận yêu cầu đòi tài sản; nếu người quản lý di sản có công sức bảo quản, gìn giữ thì giải quyết cho người đó. Trường hợp hết thời hiệu khởi kiện và yêu cầu xem xét thời hiệu thì cần làm rõ người đang chiếm hữu có chiếm hữu ngay tình, công khai hay là do những người thừa kế cho mượn, cho ở nhờ, cho thuê... để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận.
Trường hợp việc khởi kiện tranh chấp tài sản mà giữa hai bên có mối quan hệ một bên là con, cháu vợ cả, một bên là con cháu vợ lẽ hoặc vợ kế. Nếu người khởi kiện vừa kiện đòi tài sản, vừa kiện chia di sản thừa kế hoặc chỉ kiện đòi tài sản.. thì đều phải xem Tòa án có thu thập tài liệu chứng cứ về tài sản được hình thành trong từng quan hệ hôn nhân để xác định đến thời điểm khởi kiện còn tài sản nào, giá trị bao nhiêu. Sau khi người chồng và vợ cả, vợ lẽ chết thì di sản do ai quản lý, sử dụng, công sức quản lý, duy trì, tôn tạo... Phần tài sản đóng góp của vợ cả, vợ lẽ... Nếu không phân định được ai đóng góp bao nhiêu thì chia đều cho cả 03 bên. Tùy theo yêu cầu của đương sự và tình hình cụ thể của tài sản để giao bằng hiện vật hay giá trị.
Đối với các trường hợp người được hưởng di sản theo di chúc kiện đòi tài sản là di sản theo di chúc do người thừa kế quản lý (nhưng người đang quản lý di sản không được hưởng di sản theo di chúc) thì cần phải làm rõ di chúc có hợp pháp không (hợp pháp một phần hay toàn bộ), người đang quản lý di sản nếu đã được cấp giấy chứng nhận thì việc cấp giấy có đảm bảo không. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do đương sự xuất trình và Tòa án thu thập để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
- Đối với việc chia tài sản chung là di sản thừa kế:
Trường hợp này cần phải xem xét thu thập tài liệu chứng cứ xem các thừa kế có văn bản thỏa thuận khối di sản là tài sản chung của các thừa kế không, các đương sự đã tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã hay chưa... Chỉ được xác định chuyển hóa từ quyền hưởng di sản sang tài sản chung khi có đủ điều kiện sau:
+ Trường hợp không có di chúc:
Các thừa kế có văn bản thỏa thuận di sản thừa kế là tài sản chung: Nếu các bên thỏa thuận bằng văn bản thì văn bản này đều phải được tất cả các thừa kế thuộc thống nhất xác nhận về hàng thừa kế, về khối di sản để lại chưa chia, phần nào dùng để thờ cúng, phần nào dùng để chia hoặc đem chia đều hết... Nếu chứng minh được tất cả các đồng thừa kế đã thống nhất, ký tự nguyện thì sau này một hay nhiều thành viên thay đổi không đồng ý thì cũng không vì vậy mà cản trở yêu cầu chia tài sản chung của các đồng sở hữu. Trường hợp này phải áp dụng quy định tại Điều 127, Điều 132 BLDS 2015 để xác định thỏa thuận đó có bị coi là vô hiệu hay không.
Các thừa kế không có văn bản thỏa thuận xác nhận là tài sản chung thì chỉ được xác định là tài sản chung khi không có tranh chấp về hàng thừa kế, tất cả các thừa kế đều thống nhất về những người được hưởng di sản và đều xác nhận khối tài sản đó là di sản thừa kế chưa chia. Quá trình xét xử phải xem xét đánh giá ý chí của tất cả các đương sự từ đó xác định chấp nhận hay không chấp nhận chia tài sản chung.
+ Đối với trường hợp có di chúc:
Các thừa kế trong cùng hàng không tranh chấp về di sản và đều công nhận là tài sản của các thừa kế được chỉ định trong di chúc chỉ yêu cầu Tòa án phân chia cụ thể vì họ không thể phân chia thì xác định đó là tài sản chung và phân chia theo di chúc hoặc theo thỏa thuận mới của các bên nếu thỏa thuận đó không nhằm trốn tránh pháp luật.
Như vậy, quyền hưởng di sản theo pháp luật hay theo di chúc không mất đi theo thời gian. Nếu các bên không có tranh chấp thì quyền này tồn tại và được thực hiện bất cứ lúc nào theo ý chí của các chủ thể được hưởng quyền. Các thừa kế theo pháp luật hay theo di chúc chỉ mất quyền hưởng di sản trên thực tế khi các thừa kế tranh chấp và tranh chấp đó đã hết thời hiệu khởi kiện. Theo quy định của BLDS năm 2015, khi hết thời hiệu khởi kiện thì di sản có thể thuộc về người đang chiếm hữu di sản. Vì vậy, trong trường hợp này khi muốn thỏa thuận di sản là tài sản chung thì không chỉ các đồng thừa kế mà người đang chiếm hữu, quản lý di sản cũng phải tham gia thỏa thuận và đồng ý thì mới coi là di sản.
- Đối với hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giả tạo để che giấu một giao dịch khác:
Thực tế xét xử cho thấy, trong một số vụ án nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, bị đơn trình bày không có việc mua bán mà chỉ là bắt nợ hoặc ký hợp đồng để vay tiền. Trường hợp này phải kiểm sát các chứng cứ Tòa án thu thập làm rõ có hay không việc giao dịch, việc giao tiền, giao tài sản trên thực tế; có hay không việc các bên vay tiền của nhau; việc chuyển nhượng nhà đất có phải là để che giấu giao dịch khác không. Nếu chỉ có việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không chứng minh được việc giao tiền và giao tài sản, giá trị đất tại thời điểm chuyển nhượng cao hơn nhiều so với giá ghi trong hợp đồng chuyển nhượng thì không công nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa các bên, trường hợp này phải xác định hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu.
Hà Văn Dỏn
Ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án - thực trạng và giải pháp
-
1Bảo vệ lợi ích cộng đồng dưới góc nhìn của việc chi trả bảo hiểm y tế đối với khám sàng lọc bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam hiện nay
-
2Về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong Bộ luật Hình sự năm 2015
-
3Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và Cơ quan CSĐT các cấp để thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
-
4Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng
-
5Về tranh chấp thiết bị nội thất trong hợp đồng chuyển nhượng nhà đất
-
6Ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành các tranh chấp dân sự tại Tòa án - thực trạng và giải pháp
-
7Những vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Bài viết chưa có bình luận nào.