Một số nội dung cơ bản về chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân
(kiemsat.vn) Ngày 02/12/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số 359/QĐ-VKSTC phê duyệt “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân. Bài viết giới thiệu những nội dung cơ bản về chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân.
VKSND cấp cao tại Hà Nội kháng nghị bản án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Yên Bái
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì Hội nghị triển khai các quy định mới của Ban Bí thư về công tác báo chí, xuất bản tại khu vực phía Nam
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng thăm và làm việc với Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKSND tối cao
1. Về chuyển đổi số
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.
Chuyển đổi số chỉ thành công khi trở thành chiến lược cốt lõi, thay vì là nỗ lực riêng biệt, chuyển đổi số phải bao trùm lên mọi hoạt động, mọi bước đi của tổ chức. Đây là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa.
Trong cơ quan Nhà nước, việc lựa chọn chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến hiện nay đang được đẩy mạnh nhằm tạo tiền đề để công dân, tổ chức doanh nghiệp được hưởng đầy đủ nhất, toàn vẹn nhất các lợi ích trong cuộc sống.
Tin học hóa hay ứng dụng công nghệ thông tin là số hóa quy trình đã có, theo mô hình hoạt động đã có, để cung cấp dịch vụ đã có. Chuyển đổi số là thay đổi quy trình mới, mô hình tổ chức mới, phương thức cung cấp dịch vụ hoặc cung cấp dịch vụ mới. Thông thường, tin học hóa không làm thay đổi quy trình đã có hoặc mô hình hoạt động đã có. Khi tin học hóa ở mức cao, dẫn đến thay đổi quy trình hoặc thay đổi mô hình hoạt động thì gọi là chuyển đổi số.
Chuyển đổi số quốc gia bao gồm 03 cấu phần chính, lần lượt là chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan Nhà nước nhằm phát triển Chính phủ số, chuyển đổi số trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm phát triển kinh tế số, chuyển đổi số trong hoạt động của người dân nhằm phát triển xã hội số.
Mục tiêu chuyển đổi số:
Theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, mục tiêu chuyển đổi số là: Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động; phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số.
Mục tiêu tổng quát chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân được phản ánh rõ nét trong Quyết định số 359/QĐ-VKSTC ngày 02/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao phê duyệt “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 359/QĐ-VKSTC)”, đó là: “Khẩn trương chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin của ngành thành hạ tầng số thống nhất, ổn định, linh hoạt hướng tới điện toán đám mây; phát triển ứng dụng, dịch vụ mới theo hướng sử dụng chung hạ tầng số, nền tảng số và các dịch vụ công nghệ thông tin sẵn có. Có khả năng sử dụng dữ liệu số và các công cụ phân tích thông minh để phục vụ có hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành và các hoạt động nghiệp vụ kiểm sát, đáp ứng các yêu cầu kết nối, chia sẻ tài nguyên thông tin, dữ liệu trong và ngoài ngành. Đến năm 2030, cơ bản chuyển các hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân lên môi trường số; thay đổi cách thức vận hành, môi trường làm việc và công cụ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức trong ngành theo hướng chuyển đổi số”.
Nhận thức chung về chuyển đổi số:
Quan điểm nêu trong Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ, chuyển đổi số gồm có 06 thành tố chính:
Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức là trước hết và đóng vai trò quyết định. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Một cơ quan, tổ chức có thể tiến hành chuyển đổi số ngay thông qua việc sử dụng nguồn lực, hệ thống kỹ thuật sẵn có để số hóa toàn bộ tài sản thông tin của mình, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số.
Thứ hai, người dân là trung tâm. Đối với ngành Kiểm sát nhân dân, lãnh đạo VKSND các cấp, Kiểm sát viên và công chức là chủ thể của chuyển đổi số. Trong hoạt động của ngành, hướng chuyển đổi số trong công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo, áp dụng có chọn lọc, nhanh, hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ ba, thể chế và công nghệ là động lực của chuyển đổi số. Chính phủ kiến tạo thể chế, chính sách nhằm sẵn sàng chấp nhận và thử nghiệm cái mới một cách có kiểm soát; hình thành văn hóa chấp nhận và thử nghiệm cái mới; làm điểm, làm nhanh, sau đó đánh giá và nhân rộng; thúc đẩy phát triển.
Thứ tư, phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả.
Thứ năm, bảo đảm an toàn, an ninh mạng là yếu tố bắt buộc. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững. Mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm, hệ thống thông tin, dự án đầu tư về công nghệ thông tin đều có cấu phần bắt buộc về an toàn, an ninh mạng ngay từ khi thiết kế.
Thứ sáu, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.
Nhận thức chung về chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân theo Quyết định số 359/QĐ-VKSTC là: Chuyển đổi số không chỉ là việc áp dụng ứng dụng công nghệ thông tin mà là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức và cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Do vậy, chuyển đổi số không chỉ là trách nhiệm của công chức làm công nghệ thông tin, mà còn là công việc của từng công chức, Kiểm sát viên trong hoạt động của mình.
2. Các ứng dụng áp dụng chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay
Trong những năm qua, lãnh đạo VKSND tối cao đã quan tâm, quyết liệt chỉ đạo công tác công nghệ thông tin. Hiện nay, ngành Kiểm sát nhân dân đã đầu tư 15 phần mềm ứng dụng dùng chung toàn ngành, trong đó có các ứng dụng hiệu quả như:
- Ứng dụng phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành: Hệ thống truyền hình hội nghị; hệ thống Quản lý văn bản và điều hành; hệ thống Thư điện tử công vụ.
- Ứng dụng trong hoạt động nghiệp vụ: Ứng dụng số hóa bước đầu tài liệu, hồ sơ vụ án, phục vụ báo cáo án, trình chiếu tại phiên tòa và lưu trữ hồ sơ; ứng dụng vẽ sơ đồ vụ án hình sự; áp dụng chữ ký số, truyền số liệu qua mạng, xác thực điện tử, không in báo cáo thống kê giấy (mỗi năm không phải in khoảng 150.000 báo cáo thống kê); thực hiện chữ ký số trong công tác kế toán, tài chính...; thí điểm thực hiện Sổ thụ lý điện tử hình sự tại 15 đơn vị, đã nhập và liên thông dữ liệu án hình sự, hướng tới bỏ sổ giấy và tự động kết xuất báo cáo thống kê; hệ thống đơn và án tại các VKSND cấp cao quản lý thống nhất, góp phần vào việc giải quyết đơn và giải quyết án giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm tại các đơn vị này; ngoài các báo cáo tổng hợp còn có các báo cáo theo danh sách chi tiết và có thể thực hiện theo bất kỳ thời gian nào và lọc theo một số điều kiện đơn vị đã đặt ra.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác khác như: Giảng dạy (học liệu số, học trực tuyến...), báo chí, tuyên truyền (tạp chí điện tử, báo điện tử, cổng thông tin điện tử, website, báo cáo bằng video clip).
3. Những hạn chế cơ bản trong công tác ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân cho thấy bước đầu đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào việc thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn những hạn chế như sau: Quy chế, quy định chưa đầy đủ, nhất là quy chế nghiệp vụ, quy định về chế độ lập hồ sơ kiểm sát chậm sửa đổi theo hướng chuyển đổi số để phù hợp với quy định của luật (ví dụ như việc xây dựng hồ sơ án hình sự, dân sự bằng số hóa để chuyển giao giữa các cơ quan tiến hành tố tụng); giữa các bộ, ngành liên quan như: Bộ Công an, VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp chưa có sự kết nối liên thông về dữ liệu (chuyển đổi số trong hoạt động nghiệp vụ của các bộ, ngành còn sơ khai và chưa liên thông); hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ; chất lượng mạng, đường truyền dữ liệu còn chậm; các phần mềm liên quan đến quy trình nghiệp vụ phức tạp, hiệu quả chưa cao; trách nhiệm, kỷ luật công vụ trong thực hiện các nhiệm vụ về công nghệ thông tin, nhất là trong sử dụng các phần mềm ứng dụng, việc nhập dữ liệu... chưa tốt.
Như vậy, việc chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân còn sơ khai, việc số hóa hồ sơ còn thô sơ... Tuy nhiên, khả năng thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát là có đủ cơ sở, điều kiện để thực hiện với trọng tâm, trọng điểm, trước hết là phục vụ hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành, góp phần tăng năng suất lao động trong công tác văn phòng, văn thư, lưu trữ, thống kê, quản lý án... và từng bước thực hiện trong các hoạt động nghiệp vụ do còn phụ thuộc những yếu tố về quy định của pháp luật và tính chất công việc không thể thay thế được hoạt động của Kiểm sát viên, chưa bỏ được hồ sơ giấy.
4. Các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới
Quyết định số 359/QĐ-VKSTC đã nêu rõ 05 quan điểm chỉ đạo, 01 mục tiêu tổng quát, 03 nhóm mục tiêu cụ thể và đề ra 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, cụ thể:
Thứ nhất, nâng cao, thay đổi nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của toàn ngành ở tất cả các cấp từ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến tất cả công chức, viên chức, người lao động và phải chủ động tham gia thực hiện.
Thứ hai, hoàn thiện môi trường pháp lý. Trong đó có yêu cầu đề xuất sửa đổi quy định của pháp luật, xây dựng các văn bản pháp lý đầy đủ, toàn diện, phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý của VKSND các cấp để phát triển công nghệ thông tin gắn với chuyển đổi số của ngành. Có quy định chế tài trách nhiệm và đánh giá thành tích hàng năm trong lĩnh vực này.
Thứ ba, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Có kế hoạch, lộ trình đầu tư cụ thể hàng năm. Yêu cầu có trọng tâm, không trùng lắp, cập nhật công nghệ mới, có tính mở, đi đôi với nâng cấp, tận dụng hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị sẵn có; bảo đảm an toàn, hiệu quả và phù hợp với nguồn vốn, lộ trình triển khai thực hiện các đề án, dự án về công nghệ thông tin. Tập trung đầu tư mở rộng, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin đảm bảo tính kế thừa, liên thông, đồng bộ, theo mô hình kết hợp giữa tập trung và phân tán; có thứ tự ưu tiên phù hợp với nguồn kinh phí đầu tư và năng lực triển khai thực hiện để đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện kho dữ liệu, các ứng dụng hướng tới phát triển nền tảng số (đây là yếu tố then chốt). Xây dựng kho dữ liệu số, dùng chung trong toàn ngành Kiểm sát, hướng tới dữ liệu lớn (Big data). Hệ thống thông tin quản trị thông minh, báo cáo động (BI- Business Intelligence) để phục vụ việc khai thác dữ liệu tổng hợp từ các nguồn dữ liệu, các cơ sở dữ liệu khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của người sử dụng. Kho dữ liệu phải được xây dựng có khả năng dự phòng để khi có sự cố thì không bị mất dữ liệu; hoàn thiện, phát triển các ứng dụng, dịch vụ, hướng tới phát triển nền tảng số; từng bước hoàn thiện mô hình quản lý dữ liệu tập trung, chia sẻ liên thông trong nội bộ ngành và cơ sở dữ liệu quốc gia, bảo đảm bảo mật theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin. Bảo đảm tuyệt đối an toàn về hạ tầng thông tin, dữ liệu; không để xảy ra việc mất dữ liệu, bị đánh cắp hoặc bị lộ lọt thông tin trong quá trình vận hành, sử dụng. Hệ thống thông tin phục vụ hoạt động nội bộ đạt cấp độ 4 về an toàn an ninh thông tin. Triển khai các nội dung nhằm bảo đảm an toàn thông tin cho hoạt động của Viện kiểm sát các cấp, trong đó, tập trung các nội dung như: Yêu cầu xây dựng, ban hành quy chế, thường xuyên rà soát và kiểm tra việc thực hiện quy chế, quy định về bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tổ chức triển khai đầy đủ các giải pháp bảo đảm an toàn thông tin mạng…
Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức, kỹ năng khai thác ứng dụng công nghệ thông tin cho lãnh đạo đơn vị thuộc VKSND tối cao, công chức, viên chức, người lao động ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Bảo đảm chất lượng đội ngũ công chức, viên chức trực tiếp làm công tác công nghệ, thông tin đủ khả năng tham mưu, quản lý, hướng dẫn chuyên môn trong toàn ngành. Công chức, viên chức trong toàn ngành có đủ kiến thức, kỹ năng sử dụng thành thạo các thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin được trang bị.
Thứ bảy, xây dựng kế hoạch chuyển đổi số có tính khả thi. Thuê đơn vị tư vấn có năng lực, kinh nghiệm xây dựng kế hoạch chuyển đổi số của ngành. Các đơn vị trong ngành xây dựng kế hoạch chuyển đổi số phù hợp, có lộ trình cụ thể theo từng đơn vị và thống nhất trong toàn ngành.
Thứ tám, phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để xây dựng kế hoạch chuyển đổi số trong các hoạt động giải quyết án hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án… Thống nhất trong việc xây dựng hạ tầng, phần mềm, dữ liệu kết nối liên thông giữa các cơ quan trong việc xây dựng dữ liệu điện tử và chuyển giao giữa các cơ quan trong lĩnh vực nghiệp vụ mới phát huy được hiệu quả. Ví dụ: Hồ sơ án hình sự thì Cơ quan điều tra số hóa hồ sơ chuyển cho Viện kiểm sát, Viện kiểm sát số hóa tài liệu phát sinh mới trong giai đoạn tố tụng và chuyển tiếp cho Tòa án; đối với hồ sơ án dân sự, hành chính thì Tòa án số hóa hồ sơ và chuyển cho Viện kiểm sát, Viện kiểm sát số hóa tài liệu phát sinh từ Viện kiểm sát và chuyển cho Tòa án… Nếu một hồ sơ mà nhiều ngành cùng số hóa là trùng lặp, không hiệu quả. Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao trong việc xây dựng và tiếp nhận Trợ lý ảo cung cấp thông tin và những quy định của pháp luật cần thiết liên quan cho Kiểm sát viên theo thỏa thuận giữa Ban cán sự Đảng VKSND tối cao và Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ chín, một số giải pháp khác: Tăng cường kỷ luật công vụ đối với công chức, viên chức ngành Kiểm sát trong việc khai thác sử dụng các phần mềm dùng chung; tăng cường kinh phí đầu tư về công nghệ thông tin, có trọng tâm, lựa chọn nội dung, yêu cầu cấp thiết để tập trung đầu tư; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong ngành trong quá trình đầu tư hạ tầng kỹ thuật, phát triển phần mềm, thử nghiệm, vận hành, hoàn thiện các ứng dụng; phối hợp chặt chẽ, toàn diện với Bộ Thông tin và Truyền thông; phối hợp với các đơn vị, doanh nghiêp có tiềm lực mạnh về phát triển, chuyển giao ứng dụng công nghệ thông tin; đổi mới hoạt động của Cục 2 để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo VKSND tối cao trong quản lý, chỉ đạo về đầu tư phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số của ngành. Công chức chuyên trách về công nghệ thông tin tham gia đào tạo chuyên sâu về công nghệ số, chuyển đổi số từ một đến hai nước phát triển về công nghệ thông tin, có kinh nghiệm về chuyển đổi số để nghiên cứu vận dụng vào ngành Kiểm sát. Hàng năm, bố trí nguồn kinh phí thực hiện việc bảo trì hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cấp ứng dụng dùng chung toàn ngành để đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác chuyên môn.
Bài viết chưa có bình luận nào.