Hiệu lực của giao dịch dân sự không tuân thủ hình thức theo Bộ luật Dân sự 2015

28/04/2017 08:16

(kiemsat.vn)
Trong một số trường hợp ngoại lệ, Tòa án vẫn công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự khi giao dịch đó không tuân thủ quy định về hình thức.

Hợp đồng tín dụng tính lãi suất theo Bộ luật dân sự hay Luật các tổ chức tín dụng là hợp lý

Bộ luật Dân sự (BLDS) được Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2017, đã có những sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong chế định về giao dịch dân sự. Bài viết phân tích những quy định mới của BLDS về những trường hợp ngoại lệ mà Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự khi giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức.

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự[1].Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể; giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về năng lực pháp luật dân sự của chủ thể; giao dịch dân sự phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thể hiện ý chí của chủ thể; mục đích, nội dung của giao dịch không vi phạm điều pháp luật cấm, không trái với đạo đức xã hội. Ngoài ra, trong trường hợp pháp luật có quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch như: Phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì giao dịch phải tuân theo các quy định đó (chẳng hạn, hợp đồng về chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà phải được công chứng) thì giao dịch dân sự phải tuân theo, nếu không giao dịch đó sẽ vô hiệu[2].

Từ thực tiễn cho thấy, trong thời gian gần đây xảy ra nhiều trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ về mặt hình thức, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, khi chuyển quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất. Đây là vấn đề phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết thỏa đáng và cũng dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, từ đó gây lên những hệ lụy trong giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, trước hết là nhận thức của một bộ phận người dân về pháp luật dân sự còn hạn chế; quy định của BLDS là giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ về hình thức vẫn còn chung chung, trong khi hình thức của từng loại giao dịch dân sự nằm rải rác trong các chương, điều của BLDS, các luật và văn bản dưới luật. Điều này đã gây khó khăn cho việc tiếp cận các quy định trong các văn bản pháp luật để xác định hình thức của giao dịch.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thiện chí, ngay tình trong quan hệ dân sự, trước đây, BLDS năm 2005 quy định kéo dài thêm một thời hạn nhất định để các bên tự mình khắc phục, sửa chữa những thiếu sót về mặt hình thức. Cụ thể,trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 143 BLDS năm 2005). Quy định này khá linh hoạt, thể hiện sự tôn trọng tự do ý chí của chủ thể, góp phần hạn chế rủi ro pháp lý trong việc tuyên bố giao dịch vô hiệu; tuy nhiên, xét cho cùng thì nó vẫn chưa mang tính đột phá trong cách thức giải quyết vấn đề này.

Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 01/7/2016) đã có những cách tiếp cận rất mới, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền công dân, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng hơn, ổn định hơn trong giao lưu dân sự, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; hạn chế sự can thiệp của cơ quan công quyền vào quan hệ dân sự; bảo đảm sự ổn định của giao dịch dân sự, các quan hệ liên quan và hạn chế sự không thiện chí của một bên trong việc lợi dụng việc không tuân thủ quy định về hình thức để không thực hiện cam kết của mình. Theo đó, BLDS năm 2015 vẫn kế thừa BLDS năm 2005 khi quy định giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, nhưng lần đầu tiên ghi nhận các ngoại lệ để Tòa án có thể công nhận giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức có thể được công nhận hiệu lực như sau:

Theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015, giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Theo quy định của Điều 129 BLDS nêu trên, chúng ta có thể thấy một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Có hai trường hợp giao dịch được coi là không tuân thủ về hình thức,đó là: Văn bản giao dịch không đúng quy định của pháp luật và văn bản giao dịch vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực. Như vậy, giao dịch dân sự đã được xác lập giữa các bên, trước hết, phải được thể hiệnbằng văn bản vàtrường hợp giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử cũng được coi là giao dịch bằng văn bản (khoản 1 Điều 119 BLDS năm 2015). Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này.

Ở đây, cần xác địnhrõ thế nào là giao dịch bằng văn bản nhưng văn bản đó không đúng quy định của luật,vì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn vấn đề này. Theo cách hiểu thông thường thì giao dịch đúng quy định của luật là giao dịch tuân thủ các nội dung mà pháp luật quy định. Chẳng hạn, hợp đồng có thể có các nội dung nội sau đây: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phương thức giải quyết tranh chấp (Điều 398 BLDS năm 2015).Hợp đồng vay có các nội dung như: Nghĩa vụ của bên cho vay, nghĩa vụ trả nợ của bên vay, lãi suất, sử dụng tài sản vay (các điều 466, 467, 468 BLDS năm 2015)…; và một số loại hợp đồng theo quy định của luật chuyên ngành cũng có những nội dung bắt buộc.Cụ thể, theo Điều 18, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 thì nội dung hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng phải có các nội dung chính sau đây: Tên, địa chỉ của các bên; các thông tin về bất động sản; giá mua bán, cho thuê, cho thuê mua;phương thức và thời hạn thanh toán; thời hạn giao, nhận bất động sản và hồ sơ kèm theo; bảo hành; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phạt vi phạm hợp đồng; các trường hợp chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng và các biện pháp xử lý; giải quyết tranh chấp; thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Như vậy, quy định về các nội dung của hợp đồng trong BLDS năm 2015 và Luật chuyên ngành chưa có sự thống nhất. Bộ luật Dân sự không yêu cầu hợp đồng phải có các nội dung bắt buộc, mà chỉ quy định mang tính tùy nghi là “có thể có các nội dung”, trong khi Luật Kinh doanh bất động sản thì quy định các nội dung mang tính bắt buộc.

Những văn bản bắt buộc phải công chứng, chứng thực được quy định trong BLDS và các văn bản luật chuyên ngành. Theo khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015: Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó. Theo đó, những giao dịch pháp luật bắt buộc phải có công chứng, chứng thực như: Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng (khoản 1 Điều 122 Luật nhà ở năm 2014); hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013); giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực (Điều 10, Thông tư 15/2014/TT- BCA quy định về đăng ký xe)… Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 thì nếu các bên vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, khi giải quyết thì Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Thứ hai, điều kiện để văn bản không tuân thủ hình thức được Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực là một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch. Theo Điều 274 BLDS năm 2015: Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).Theo đó, đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện, và đối tượng phải xác định được. Quy định đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch có thể hiểu là: (1). Một bên hoặc các bên đã chuyển giao ít nhất hai phần ba vật (nếu là vật cùng loại thì phải giao ít nhất 2/3 số lượng với chất lượng như đã thỏa thuận là hợp lý), nhưng với vật đặc định hoặc vật đồng bộ thì việc xác định 2/3 nghĩa vụ sẽ gặp khó khăn. (2). Đã chuyển giao ít nhất hai phần ba quyền. (3). Một bên hoặc các bên đã trả ít nhất hai phần ba tiền hoặc giấy tờ có giá. (4). Một bên hoặc các bên đã thực hiện hoặc không thực hiện ít nhất hai phần ba công việc đã thỏa thuận. Tuy nhiên, việc xác định thế nào cho chính xác một hoặc các bên đã thực hiện hai phần ba nghĩa vụ sẽ gặp khó khăn trong thực tiễn giải quyết, dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng khi chưa có văn bản  hướng dẫn cụ thể.

Thứ ba, không phải việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì giao dịch đó đương nhiên có hiệu lực, mà cần có thêm điều kiện là phải thông qua con đường Tòa án. Cụ thể là, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, sau khi xem xét đầy đủ các điều kiện của giao dịch như đã nêu trên thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

Nguyễn Thị Thu Hải

VKSND tối cao

Nguồn: Tạp chí Kiểm sát số 24/2016

[1]Điều 116 BLDS năm 2015; Điều 121 BLDS năm 2005.

[2]Xem các điều 117, 119 BLDS năm 2015.

Trao đổi bài viết: “Giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự thế nào cho đúng”

(Kiemsat.vn) - Qua nghiên cứu nội dung bài viết: “Giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự thế nào cho đúng?” của tác giả Vũ Thị Minh đăng trên kiemsat.vn ngày 11/7/2017, tôi có ý kiến trao đổi như sau: Tôi chưa đồng tình toàn bộ với hai ý kiến được nêu trong bài viết.
lên đầu trang