Bị hại có nghĩa vụ chứng minh giá trị tài sản bị trộm?
(kiemsat.vn) Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết các vụ án thì vấn đề bị hại có nghĩa vụ phải chứng minh về tài sản bị mất trộm không, hiện vẫn còn quan điểm khác nhau.
Có cần tước giấy phép lái xe trong vụ án vi phạm giao thông đường bộ?
Tòa án có giải quyết việc nuôi con chung khi vợ chồng ly hôn lần thứ hai?
Ly hôn lần thứ hai, Tòa án vẫn giải quyết việc nuôi con chung
Ngày 12/4/2017, Trần Văn T đột nhập vào nhà của ông Nguyễn Văn B lấy trộm tài sản là vàng và tiền mặt. Sau đó, ông B báo với cơ quan điều tra bị mất tổng cộng 15 chỉ vàng 24K (gồm một sợi dây chuyền 01 lượng vàng 24K; 01 chiếc nhẫn trơn 02 chì vàng 24K và 01 chiếc lắc đeo tay 02 chỉ vàng 24K) và 70 triệu đồng.
Khi cơ quan điều tra huyện X bắt được Trần Văn T thì T khai nhận chỉ lấy trộm của ông B 05 chỉ vàng 24K (gồm 01 chiếc nhẫn trơn 02 chì vàng 24K và 01 chiếc lắc đeo tay 02 chỉ vàng 24K) và 15 triệu đồng nhưng đã tiêu xài hết 05 triệu đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không chứng minh được T đã trộm tiền và vàng của ông B như ông B khai báo. Còn ông B thì cho rằng mình đã bị mất trộm tiền và vàng như trình báo với cơ quan chức năng và đã chứng minh được nguồn tài sản bị mất trộm. Nếu giá trị tài sản bị mất trộm như ông B khai thì T bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 nhưng nếu giá trị tài sản bị mất trộm như T khai thì T bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm.
Ảnh minh họa |
Quan điểm thứ nhất, cho rằng: Ông B đã chứng minh được số tài sản bị mất như ông đã trình với với cơ quan điều tra. Việc bị cáo khai báo chỉ lấy trộm của ông B 05 chỉ vàng 24K và 15 triệu đồng là nhằm mục đích che đậy hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã chứng minh được thời gian, không gian, địa điểm bị mất trộm là trùng khớp với lời khai của ông B và T. Vì vậy, phải khởi tố T theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả. Mặc dù ông B chứng minh được nguồn tài sản bị mất trộm như đã khai báo. Cơ quan điều tra chứng minh được thời gian, không gian, địa điểm bị mất trộm là trùng khớp với lời khai của ông B và T. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra không chứng minh được số tài sản T đã trộm như là ông B khai. Vì vậy, chỉ lấy giá trị tài sản mà T khai đã lấy trộm của ông B là 05 chỉ vàng 24K và 15 triệu đồng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. Vì vậy, T chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi, thảo luận của bạn đọc.
Xem thêm >>>
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
Bài viết chưa có bình luận nào.