Bị hại có nghĩa vụ chứng minh giá trị tài sản bị trộm?
Ngày đăng : 09:55, 02/10/2018
Ngày 12/4/2017, Trần Văn T đột nhập vào nhà của ông Nguyễn Văn B lấy trộm tài sản là vàng và tiền mặt. Sau đó, ông B báo với cơ quan điều tra bị mất tổng cộng 15 chỉ vàng 24K (gồm một sợi dây chuyền 01 lượng vàng 24K; 01 chiếc nhẫn trơn 02 chì vàng 24K và 01 chiếc lắc đeo tay 02 chỉ vàng 24K) và 70 triệu đồng.
Khi cơ quan điều tra huyện X bắt được Trần Văn T thì T khai nhận chỉ lấy trộm của ông B 05 chỉ vàng 24K (gồm 01 chiếc nhẫn trơn 02 chì vàng 24K và 01 chiếc lắc đeo tay 02 chỉ vàng 24K) và 15 triệu đồng nhưng đã tiêu xài hết 05 triệu đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không chứng minh được T đã trộm tiền và vàng của ông B như ông B khai báo. Còn ông B thì cho rằng mình đã bị mất trộm tiền và vàng như trình báo với cơ quan chức năng và đã chứng minh được nguồn tài sản bị mất trộm. Nếu giá trị tài sản bị mất trộm như ông B khai thì T bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 nhưng nếu giá trị tài sản bị mất trộm như T khai thì T bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm.
Ảnh minh họa |
Quan điểm thứ nhất, cho rằng: Ông B đã chứng minh được số tài sản bị mất như ông đã trình với với cơ quan điều tra. Việc bị cáo khai báo chỉ lấy trộm của ông B 05 chỉ vàng 24K và 15 triệu đồng là nhằm mục đích che đậy hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã chứng minh được thời gian, không gian, địa điểm bị mất trộm là trùng khớp với lời khai của ông B và T. Vì vậy, phải khởi tố T theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả. Mặc dù ông B chứng minh được nguồn tài sản bị mất trộm như đã khai báo. Cơ quan điều tra chứng minh được thời gian, không gian, địa điểm bị mất trộm là trùng khớp với lời khai của ông B và T. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra không chứng minh được số tài sản T đã trộm như là ông B khai. Vì vậy, chỉ lấy giá trị tài sản mà T khai đã lấy trộm của ông B là 05 chỉ vàng 24K và 15 triệu đồng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. Vì vậy, T chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi, thảo luận của bạn đọc.
Xem thêm >>>