Vướng mắc trong hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản

03/03/2025 08:54

(kiemsat.vn)
Hiện nay, việc hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản đã được Tòa án tuyên trong bản án đang là vấn đề bất cập do pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể. Qua một vụ việc cụ thể, tác giả phân tích, làm rõ bất cập này, đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

Vướng mắc phát sinh trong thực tiễn

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự thời gian qua, ở giai đoạn điều tra vụ án, để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án, một số bị can bị Cơ quan điều tra ra lệnh phong tỏa tài khoản ngân hàng; đến quá trình xét xử vụ án, xét thấy bị cáo không bị phạt tiền, không bị tịch thu tài sản, không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên Tòa án (Hội đồng xét xử) quyết định áp dụng điểm d khoản 1 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (gọi tắt là BLTTHS năm 2015) hủy bỏ phong tỏa tài khoản đối với bị cáo. Tuy nhiên, để thi hành quyết định hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản đã được Tòa án tuyên trong bản án, hay nói cách khác là để chủ tài khoản (người bị kết án) được thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình đối với tiền trong tài khoản đã bị Cơ quan điều tra áp dụng lệnh phong tỏa lại đang là vấn đề vướng mắc, bất cập. Trường hợp sau đây là một ví dụ:

Ngày 17/5/2021, Nguyễn Quốc H bị truy tố về Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng, theo khoản 3 Điều 224 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra lệnh phong tỏa 02 tài khoản của ông H (01 tài khoản tại Ngân hàng A, 01 tài khoản tại Ngân hàng B). Khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy bị cáo không bị phạt tiền, không có nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên đã tuyên hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản tại Ngân hàng A; cũng tương tự, giai đoạn xét xử phúc thẩm Hội đồng xét xử tiếp tục áp dụng điểm d khoản 1 Điều 130 BLTTHS năm 2015 tuyên hủy bỏ phong tỏa tài khoản tại Ngân hàng B. Sau khi bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, để tiếp tục được thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình, ông H đã 03 lần gửi đơn hoặc trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu thực hiện quyết định của bản án nhưng đều không đạt được kết quả:

Lần thứ nhất: Ông H gửi đơn yêu cầu đến cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) yêu cầu thi hành 02 quyết định nêu trên của Tòa án để đảm bảo tài khoản của cá nhân được giao dịch trở lại bình thường, tuy nhiên, cơ quan THADS không thực hiện yêu cầu của ông vì cho rằng vấn đề trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan Thi hành án, với lý do: “Căn cứ Điều 66, Điều 67 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (gọi tắt là Luật THADS năm 2008), cơ quan THADS chỉ có thẩm quyền ra quyết định phong tỏa tài khoản khi có yêu cầu của Chấp hành viên hoặc của đương sự, nhằm đảm bảo khả năng thi hành án của đương sự, trong giai đoạn cơ quan tổ chức thi hành bản án và ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa tài khoản khi lý do phong tỏa tài khoản đó không còn”.

Lần thứ hai: Sau khi nội dung yêu cầu của mình không được đáp ứng, ông H tiếp tục gửi đơn yêu cầu, cùng tài liệu kèm theo là bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm của Tòa án đến các ngân hàng nêu trên, đề nghị các ngân hàng này chấm dứt phong tỏa tài khoản theo quyết định của Tòa án đã tuyên trong bản án, song các ngân hàng cũng không thực hiện nội dung đề nghị của ông, với lý do: Theo điểm b khoản 4 Điều 17 Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: “Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chấm dứt phong tỏa tài khoản khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu chấm dứt phong tỏa tài khoản thanh toán”; tức là buộc cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Tòa án hoặc cơ quan Thi hành án) có liên quan phải có quyết định hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản đã ban hành hoặc yêu cầu chấm dứt phong tỏa tài khoản đối với ông H, gửi đến ngân hàng đang quản lý tài sản.

Lần thứ ba: Khi nhận được phản hồi từ phía ngân hàng, ông H lại trực tiếp đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đề nghị Tòa án gửi văn bản yêu cầu chấm dứt phong tỏa tài khoản đến ngân hàng nhưng Tòa án cũng không thực hiện nội dung đề nghị của ông, bởi 02 bản án đã tuyên đã có hiệu lực pháp luật, là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất và cuối cùng; mặt khác, Tòa án cũng không có thẩm quyền ra quyết định thi hành án về phần dân sự, cũng như ra thêm văn bản nào nữa sau khi bản án Tòa án tuyên có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến nay, nội dung quyết định của bản án vẫn chưa được thi hành; người sở hữu tài sản (chủ tài khoản ngân hàng) cũng chưa quản lý, sử dụng được tài sản của mình do tài khoản vẫn bị phong tỏa.

Từ thực tiễn trên, cho thấy một số vấn đề bất cập, vướng mắc sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền thi hành quyết định bản án của Tòa án:

Theo quy định của Luật THADS năm 2008, Luật thi hành án hình sự năm 2019 thì tất các các nội dung quyết định trong bản án có liệu lực pháp luật từ hình phạt chính; hình phạt bổ sung; biện pháp tư pháp tịch thu tiền, tài sản sung quỹ Nhà nước, truy thu tiền thu lợi bất chính, trả lại tiền tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, tài sản hay nghĩa vụ nộp các khoản án phí đều được cơ quan Thi hành án hình sự, cơ quan THADS trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình tổ chức thi hành kịp thời, đúng quy định.

Tuy nhiên, về thi hành nội dung “hủy bỏ phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội hoặc của người khác” mà Tòa án tuyên trong bản án có hiệu lực pháp luật lại không được pháp luật THADS hay các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quy định cụ thể thẩm quyền thi hành. Mặc dù, tại khoản 3 Điều 35 Luật THADS năm 2008 quy định: “Cơ quan Thi hành án cấp Quân khu có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây: Quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án”. Nội dung quyết định dân sự trong bản án được đề cập ở trên được hiểu bao gồm nội dung hủy bỏ phong tỏa tài khoản, nhưng ngược lại Điều 36 Luật THADS năm 2008 quy định về thẩm quyền ra quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan THADS lại không đề cập đến việc thi hành nội dung hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản, dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền rất khó khăn trong việc xác định thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục thi hành nội dung quyết định này của Tòa án; gây khó khăn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sở hữu hợp pháp tài sản. Vì vậy, nội dung trả lời của Phòng thi hành án như đã nêu trên (lần thứ nhất) hoàn toàn có cơ sở pháp lý.

Thứ hai, về quyền được nhận bản án hay quyết định hủy bỏ quyết định phong tỏa tài khoản của cơ quan, tổ chức quản lý tài sản có liên quan đến biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản:

Khi cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội hoặc của người khác trong trường hợp cần thiết để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án, theo khoản 4 Điều 129 BLTTHS năm 2015, cơ quan tiến hành tố tụng phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước đang quản lý tài sản; tuy nhiên, khi kết thúc giải quyết vụ án bằng bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trong đó có việc quyết định duy trì áp dụng hay không áp dụng biện pháp cưỡng chế lại không có điều luật nào quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm gửi bản án có hiệu lực pháp luật cho đối tượng này. Cụ thể, tại Điều 130 (Hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản), Điều 262 (Giao, gửi bản án) của BLTTHS năm 2015 chưa đề cập đến việc giao, gửi bản án hay quyết định hủy bỏ phong tỏa tài khoản cho đối tượng là tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước có liên quan. Thực tế, qua kiểm tra bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, cả Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều không giao, gửi bản án cho ngân hàng đang quản lý tài khoản của người bị kết án. Đây cũng là một trong những bất cập, nguyên nhân dẫn đến cơ quan, tổ chức tín dụng đang có trách nhiệm quản lý tài sản không nắm được thông tin, nội dung quyết định của Tòa án liên quan đến tài khoản cá nhân mình đang quản lý, thụ động trong công tác liên hệ, phối hợp khi có đơn yêu cầu của chủ tài khoản để thực hiện các thủ tục kịp thời, đảm bảo tốt nhất quyền lợi hợp pháp của chủ tài khoản.

Chính vì vậy, khi ông Nguyễn Quốc H có đơn yêu cầu ngân hàng chấm dứt phong tỏa tài khoản đối với ông thì ngân hàng không chấp nhận yêu cầu. Bởi lẽ, việc phong tỏa tài khoản của ông H phát sinh khi nhận được quyết định phong tỏa tài khoản của cơ quan tiến hành tố tụng, do đó, việc chấm dứt phong tỏa tài khoản cũng đòi hỏi phải có quyết định hủy bỏ quyết định phong tỏa tài khoản đã ban hành hay bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Thứ ba, về trình tự, thủ tục thi hành nội dung “hủy bỏ phong tỏa tài khoản” được Tòa án tuyên trong bản án:

Việc thi hành nội dung “Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 130 BLTTHS tuyên hủy bỏ phong tỏa tài khoản” mà Tòa án (Hội đồng xét xử) quyết định trong phần quyết định của bản án có phải là quyết định cuối cùng, có giá trị pháp lý cao nhất hoặc là căn cứ, cơ sở duy nhất để tổ chức tín dụng hay kho bạc nhà nước thực hiện việc chấm dứt phong tỏa tài khoản hay không đang là vấn đề vướng mắc, chưa được cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể, dẫn đến cơ quan Tòa án, cơ quan Thi hành án không xác định được trình tự, thủ tục pháp lý phù hợp, chính xác để thi hành trên thực tế và người có tài sản được Tòa án tuyên hủy bỏ biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản không được hưởng quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình một cách kịp thời.

 Hiện nay, có quan điểm cho rằng, nội dung đã tuyên trong bản án là quyết định có giá trị pháp lý cuối cùng và cao nhất để tổ chức tín dụng hay kho bạc nhà nước sử dụng để làm căn cứ chấm dứt biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản. Bởi bản án được Tòa án nhân danh Nhà nước quyết định trên cơ sở quy định pháp luật và Tòa án cũng không thể ra văn bản nào khác để yêu cầu các cá nhân, tổ chức liên quan tổ chức thực hiện nội dung đó. Quan điểm khác lại cho rằng, nội dung tuyên trong phần quyết định của bản án mới chỉ phản ánh về mặt tố tụng để xác định việc có tiếp tục duy trì hay hủy bỏ áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đối với người phạm tội. Trên cơ sở quyết định của bản án đã tuyên, cơ quan đã ban hành quyết định phong tỏa tài khoản cần tiếp tục ban hành quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp ngăn chặn phong tỏa tài khoản đã ban hành trước đó. Việc tiến hành các thủ tục để ra quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản phải do cơ quan THADS tổ chức, phối hợp thi hành.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Để khắc phục những bất cập như đã nêu, tác giả kiến nghị cấp có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung một số nội dung theo hướng sau:

Đối với BLTTHS năm 2015:

- Cần bổ sung vào Điều 129 (Hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản) nội dung: “Khi Quyết định hủy bỏ biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội hoặc của người khác, cơ quan có thẩm quyền quyết định huỷ bỏ biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản phải giao quyết định hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước có liên quan”.

- Bổ sung vào Điều 262 (Giao, gửi bản án) đối tượng mà Tòa án phải có trách nhiệm gửi bản án: “Gửi bản án cho Tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước có liên quan trong trường hợp bị cáo bị áp dụng hoặc hủy bỏ biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản”.

Đối với Luật THADS năm 2008:

- Cần quy định bổ sung thẩm quyền của cơ quan THADS, cũng như Thủ trưởng cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật đối với nội dung hủy bỏ áp dụng biện pháp cưỡng chế phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội; đồng thời hướng dẫn bổ sung trình tự, thủ tục thi hành nội dung quyết định của bản án đối với nội dung trên theo hướng: “Khi nhận được bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành nội dung quyết định của Tòa án về hủy bỏ áp dụng phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội hoặc của người khác và phân công Chấp hành viên chịu trách nhiệm tổ chức thi hành.

Sau khi được Thủ trưởng cơ quan THADS phân công, Chấp hành viên phối hợp, làm văn bản thông báo kèm bản án có hiệu lực pháp luật gửi cho cơ quan đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn phong tỏa tài khoản đối với người phạm tội hoặc của người khác, trên cơ sở đó, cơ quan đã ban hành quyết định phong tỏa tài khoản ra quyết định hủy bỏ phong tỏa tài khoản và gửi quyết định đó cho tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước để chấm dứt phong tỏa tài khoản đối với họ theo đúng quy định”.

Trần Thị Thu Thủy

Về tâm lý của kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

(Kiemsat.vn) - Việc nghiên cứu, phân tích tâm lý của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giúp Kiểm sát viên có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về tâm lý, chủ động trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Điều này cũng có ý nghĩa trong bồi dưỡng kiến thức về tâm lý, kỹ năng đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Một số vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng

(Kiemsat.vn) - Giải quyết mối quan hệ về tài sản chung của vợ chồng tương đối phức tạp, do liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều thời kỳ, nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Bài viết tổng hợp một số vi phạm khi giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng và những lưu ý trong kiểm sát việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang