Chiến lược phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới
(kiemsat.vn) Mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là xây dựng được đội ngũ nhân lực ngành KSND, xét trên cả phương diện về lượng và chất, đáp ứng được việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành, của tư pháp, cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân trong kỷ nguyên phát triển mới
Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu hướng phát triển trong kỷ nguyên mới
Vai trò kiểm soát quyền lực tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1. Khái niệm về chiến lược phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân
Nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) là một bộ phận của nhân lực tư pháp, một loại nhân lực pháp luật, một loại nhân lực quốc gia. Nhân lực pháp luật bao gồm nhân lực xây dựng pháp luật, nhân lực thi hành, áp dụng pháp luật, nhân lực tư pháp (trong đó có nhân lực ngành KSND), nhân lực nghiên cứu và đào tạo pháp luật và các loại nhân lực pháp luật khác. Nhân lực ngành KSND ở nghĩa hẹp là những người thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp - đội ngũ Kiểm sát viên. Nhân lực ngành KSND ở nghĩa rộng là những người thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp - đội ngũ Kiểm sát viên và những người tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhân lực ngành KSND có thể được phân thành các loại sau: (i) Đội ngũ Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên; (ii) Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của ngành KSND; (iii) Đội ngũ viên chức (giảng viên, nghiên cứu viên); (iv) Đội ngũ cán bộ khác.
Nhân lực ngành KSND là chủ thể chính xây dựng, tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND; bên cạnh đó, có các chủ thể khác. Nhân lực ngành Kiểm sát có năng lực, có trình độ, có kinh nghiệm thì sẽ xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND.
Nhân lực ngành KSND là kết quả của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND. Mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là xây dựng được đội ngũ nhân lực ngành KSND, xét trên cả phương diện về lượng và chất, đáp ứng được việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành, của tư pháp, cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước. Đây vừa là mục tiêu hướng đến, vừa là kết quả của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Để xây dựng được chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND phù hợp, cần tiến hành nghiên cứu, điều tra xã hội học, đánh giá thực trạng loại nhân lực đó một cách toàn diện, hệ thống về số lượng và chất lượng, tổng thể và cụ thể theo từng loại nhân lực ngành Kiểm sát.
Chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một loại của chiến lược phát triển nhân lực pháp luật quốc gia. Nhân lực pháp luật bao gồm nhiều loại khác nhau. Tùy thuộc vào lĩnh vực thực thi quyền lực, nhân lực pháp luật có thể được phân thành: Nhân lực lập pháp, bao gồm những người thực hiện quyền lập pháp và những người tham gia thực hiện quyền lập pháp; nhân lực hành pháp, bao gồm những người thực hiện quyền hành pháp và những người tham gia thực hiện quyền hành pháp; nhân lực tư pháp, bao gồm những người thực hiện quyền tư pháp và những người tham gia thực hiện quyền tư pháp; nhân lực ngành KSND; nhân lực nghiên cứu khoa học pháp lý; nhân lực đào tạo pháp luật và các loại nhân lực pháp luật khác.
Chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một nội dung hay bộ phận chiến lược cấu thành của đổi mới ngành KSND, cải tư cách pháp. Cải cách tư pháp bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Đó là những nội dung về quyền tư pháp, về thực hiện quyền tư pháp, về tổ chức các cơ quan tư pháp, về pháp luật tư pháp, về nhân lực tư pháp, về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và những nội dung khác. Có thể nói, chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một trong những nội dung cốt lõi của đổi mới ngành KSND, cải cách tư pháp.
Chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một loại chiến lược độc lập, bởi lẽ, nó có đầy đủ các bộ phận cấu thành của một loại chiến lược. Các bộ phận cấu thành đó bao gồm: Mục tiêu, quan điểm, chủ thể, nội dung, phương tiện, giải pháp tương ứng của nó.
Dựa vào quan niệm phổ biến hiện nay về chính sách công, dưới dạng khái quát nhất, trước hết, có thể hiểu, chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống để xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, sách lược phát triển nhân lực ngành KSND. Điều đó có nghĩa rằng, chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là công việc phải làm, là một loại hoạt động - hoạt động chính sách. Hoạt động đó không thể diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà phải có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống. Tính khoa học, tính nhất quán, tính hệ thống là những thuộc tính của hoạt động đó. Bản thân chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một loại hoạt động tổ hợp, bao gồm nhiều hoạt động chiến lược cụ thể. Đó là hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, sách lược phát triển nhân lực ngành KSND.
Chủ thể của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, tổ chức thực hiện và các chủ thể tham gia xây dựng, tham gia tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đóng vai trò rất quan trọng, là chủ thể trung tâm trong chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND.
Nội dung của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là xác định và thực hiện mục tiêu, quan điểm, định hướng nhiệm vụ, các giải pháp phát triển nhân lực ngành Kiểm sát, sử dụng một cách văn minh, có trí tuệ công cụ chính sách, tức là phát huy tối đa các tiềm năng, khả năng, vai trò, sứ mệnh, chức năng của công cụ chiến lược để thực hiện các mục tiêu đã được đề ra, xác định các điều kiện cần thiết cho phát triển nhân lực ngành KSND.
Mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành Kiểm sát là phát triển nhân lực có hiệu quả, bảo đảm về chất lượng và số lượng theo hệ tiêu chí nhất định, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, tư pháp, cải cách tư pháp, sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Do đó, có thể hiểu, chiến lược quốc gia về phát triển nhân lực ngành KSND là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế khác để xác định và thực hiện mục tiêu, quan điểm, định hướng nhiệm vụ, nội dung, giải pháp phát triển nhân lực ngành KSND, xác định các điều kiện cần thiết cho phát triển nhân lực ngành KSND có chất lượng, hiệu quả.
2. Mục tiêu và quan điểm của chiến lược phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân
Việc xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND cần phải xuất phát, dựa vào và phản ánh nhu cầu phát triển nhân lực ngành KSND. Chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND có nhiều mục tiêu khác nhau: Mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể, mục tiêu dài hạn, mục tiêu trung hạn và mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu về số lượng và mục tiêu về chất lượng, mục tiêu về chuyên môn, mục tiêu về đạo đức, mục tiêu về chính trị và các mục tiêu khác.
Hệ thống các mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND luôn thay đổi, bởi các điều kiện bên ngoài và bên trong luôn được biến đổi, các nhu cầu, lợi ích quyết định việc xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND cũng được biến đổi. Các tình tiết đã được biến đổi đó làm thay đổi quan niệm về các mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược đó.
Những phân tích lý luận nói trên về mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND là một trong những căn cứ được sử dụng để xác định mục tiêu của chiến lược đó.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND, theo quan điểm của chúng tôi, là phát triển nhân lực ngành KSND đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý; nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực; có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành KSND, cải cách tư pháp, của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Mục tiêu cụ thể của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND có thể được xác định theo những thông số khác nhau như: Theo thời hạn (chẳng hạn, 05 năm, 10 năm hoặc lâu hơn), theo số lượng tổng thể và theo các loại nhân lực (chức danh) ngành KSND (chẳng hạn, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, giảng viên và các chức danh khác), theo chất lượng, theo mô hình tổ chức, theo tổ chức, theo tiêu chuẩn đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng,...
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW) không chỉ ra một cách cụ thể các mục tiêu, đặc biệt các mục tiêu về số lượng của phát triển nhân lực tư pháp, trong đó có nhân lực ngành KSND. Các thành tố của mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, theo cách gọi của Nghị quyết, được xác định trong các nội dung tương ứng của Nghị quyết.
Sau 20 năm tiến hành cải cách tư pháp, số lượng nhân lực toàn ngành Kiểm sát gia tăng một cách đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được việc giải quyết các loại án hiện nay ở nước ta.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) tiếp tục xác định: “Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật”.
Cần phải xác định mục tiêu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 trên cả phương diện số lượng và chất lượng, cụ thể:
- Mục tiêu về số lượng: Tăng số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên và các chức danh khác của ngành KSND để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới ngành KSND, cải cách tư pháp trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Việc tăng số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên và các chức danh khác của ngành KSND được luận chứng dựa vào các căn cứ như: Sự gia tăng của tình hình tội phạm; tình hình tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình; tình hình tranh chấp kinh tế; tình hình tranh chấp lao động; tình hình tranh chấp thương mại; tình hình tranh chấp hành chính và các loại tranh chấp khác liên quan đến tư pháp; tính chất phức tạp của tình hình tội phạm và của các loại tranh chấp đó; chỉ tiêu làm việc của cán bộ ngành KSND; nhiệm vụ mới của ngành KSND;…
- Mục tiêu về chất lượng: Nâng cao chất lượng nhân lực ngành KSND để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, thương mại, hành chính để bảo vệ có hiệu quả pháp luật, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
- Mục tiêu phát triển nhân tài ngành KSND: Cần phải xác định việc xây dựng và phát triển nhân tài tư pháp, trong đó có nhân tài ngành KSND với tư cách là phát triển một loại nhân tài pháp luật. Cần phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, trọng dụng nhân tài ngành KSND và có chính sách tương ứng đối với nhân tài ngành KSND.
Quan điểm của chiến lược là thành tố không thể thiếu của mọi chiến lược. Xác định đúng quan điểm của chiến lược là một nội dung của chiến lược. Quan điểm của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND được hiểu là các tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND.
Quan điểm phát triển nhân lực ngành KSND giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 bao gồm các quan điểm chuyên môn, đạo đức và chính trị. Các quan điểm đó đã được ghi nhận trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, trong các văn bản tương ứng của Nhà nước. Đó là các quan điểm: Phát triển nhân lực ngành KSND theo hướng chuyên môn hóa; bảo đảm bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp; trong sạch, vững mạnh, có dũng khí đấu tranh vì công lý; phát triển nhân lực tư pháp theo hướng động và mở và các quan điểm khác.
3. Các định hướng phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân
Các định hướng phát triển nhân lực ngành KSND có thể được xác định dựa vào các tiêu chí khác nhau. Đó là các định hướng phát triển tổng thể, toàn diện, bao trùm, có sự phân hóa hài hòa, hợp lý bên trong từng loại nhân lực cụ thể của ngành KSND và các định hướng cụ thể theo các loại nhân lực cụ thể của ngành KSND như: Định hướng phát triển đội ngũ Kiểm sát viên, đội ngũ Điều tra viên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và định hướng phát triển các loại nhân lực khác của ngành KSND. Đó là các định hướng phát triển nhân lực ngành KSND theo các ngạch bậc của từng loại nhân lực ngành KSND như: Nhân lực sơ cấp, nhân lực trung cấp, nhân lực cao cấp. Đó là các định hướng phát triển nhân lực lãnh đạo, quản lý, chuyên môn trong ngành KSND.
Định hướng của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045, theo quan điểm của chúng tôi, cần coi phát triển nhân lực Kiểm sát viên là trọng tâm của phát triển nhân lực. Chuyên môn hóa Kiểm sát viên, đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý đối với các loại nhân lực ngành KSND. Điều đó là hoàn toàn đúng bản chất, hợp lôgic, bởi lẽ, theo Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân, xét trên phương diện nhân sự, trước hết là đội ngũ Kiểm sát viên thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó.
Chúng tôi cho rằng, phát triển đội ngũ Kiểm sát viên cần được tiến hành theo hướng chuyên môn hóa Kiểm sát viên, đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của Kiểm sát viên, nâng cao trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm xã hội của Kiểm sát viên, vị thế của Kiểm sát viên trong nhân lực tư pháp, trong cơ chế quyền lực nhà nước, trong xã hội. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết số 27/NQ-TW.
4. Nội dung của phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân
Nội dung của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND cần phải hướng đến việc trang bị hệ thống tri thức cần thiết cho đội ngũ nhân lực ngành KSND. Tri thức cần trang bị cho đội ngũ nhân lực ngành KSND là một hệ thống tri thức bao gồm tổ hợp tư duy pháp lý, cách tiếp cận giải quyết vấn đề pháp luật, tri thức pháp luật, tri thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, hội nhập quốc tế liên quan đến pháp luật, đến thực thi pháp luật, khả năng, năng lực, kỹ năng pháp luật, tri thức thực tiễn về pháp luật, tri thức về nghề kiểm sát, tri thức về đạo đức và những tri thức liên quan khác.
Phát triển nhân lực ngành KSND theo các tiêu chuẩn về chuyên môn, về đạo đức, về chính trị, trong đó phải coi trọng tiêu chuẩn chuyên môn và đạo đức. Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực ngành KSND về chuyên môn bao gồm các tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn riêng đối với từng loại nhân lực ngành KSND (Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý…). Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực ngành KSND về đạo đức cũng bao gồm các chuẩn mực đạo đức chung đối với mọi loại nhân lực và các chuẩn mực đạo đức đối với từng loại nhân lực (Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Điều tra viên...). Các tiêu chuẩn phát triển nhân lực ngành Kiểm sát về chính trị là các đòi hỏi về chính trị đối với nhân lực ngành KSND.
Việc xác định đúng hệ thống tri thức và hệ các tiêu chuẩn nói trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng các chương trình đào tạo tổng thể và cụ thể để phát triển nhân lực ngành KSND. Từng chương trình đào tạo bao gồm một khối lượng kiến thức nhất định, theo những tiêu chuẩn nhất định. Nghiên cứu các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhân lực pháp luật nói chung, nhân lực ngành Kiểm sát nói riêng ở nước ta hiện nay cho thấy, các chương trình đào tạo đó chưa hoàn toàn phù hợp, chưa theo hệ thống tri thức cần thiết và hệ các tiêu chuẩn đối với phát triển nhân lực ngành KSND, do vậy, chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, chưa phúc đáp đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ đã được đặt ra đối với cải cách tư pháp.
Về vấn đề này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp, và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện nội dung này của Chiến lược cải cách tư pháp, các cơ sở đào tạo đã hoàn thiện, đổi mới các chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, bước đầu đã kết hợp kiến thức chuyên môn với kiến thức về chính trị, đạo đức. Các cơ quan có thẩm quyền tương ứng đã xây dựng các tiêu chí về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức đối với các loại chức danh tư pháp cụ thể để áp dụng trong thực tiễn và bước đầu thu nhận được những kết quả nhất định.
Tuy vậy, thực tiễn cải cách tư pháp cho thấy, nội dung phát triển nhân lực tư pháp nói chung, ngành KSND nói riêng còn nhiều hạn chế. Đó là hệ tiêu chuẩn đối với nhân lực tư pháp nói chung, đối với từng loại nhân lực tư pháp nói riêng vẫn chưa được xác định rõ ràng, cụ thể; hệ thống kiến thức trang bị cho đội ngũ nhân lực tư pháp, trong đó có ngành KSND còn mang nặng kiến thức pháp luật thực định, chưa coi trọng kiến thức xã hội, kiến thức đạo đức; nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa được đổi mới thực sự, chưa mang tính đa ngành, liên ngành để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, các yêu cầu, đòi hỏi mới và những hạn chế trong nội dung phát triển nhân lực tư pháp nói chung, ngành KSND nói riêng như đã phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng, cần phải đổi mới mạnh mẽ nội dung phát triển nhân lực, cụ thể là:
- Đổi mới nội dung phát triển nhân lực ngành KSND theo hướng mở rộng các tiêu chuẩn, nâng cao các đòi hỏi đối với nhân lực; mở rộng tri thức theo hướng kết hợp tri thức pháp luật với các tri thức kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, văn hóa, quốc tế; áp dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành trong xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng,...
- Hoàn thiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Kiểm sát viên, Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Điều tra viên, Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của cán bộ thi hành án, đặc biệt cán bộ thi hành án hình sự.
Do vậy, Nghị quyết số 27-NQ/TW tiếp tục xác định: “Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp”.
5. Các giải pháp phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân
Giải pháp phát triển nhân lực tư pháp là cách thức được nhà nước sử dụng để tác động đến đối tượng của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND nhằm đạt được mục tiêu đặt ra của chiến lược phát triển nhân lực. Đồng thời, các giải pháp phải thu hút được mọi nguồn lực để phát triển nhân lực ngành KSND một cách hiệu quả, chất lượng. Các giải pháp đó phải mang tính tổng thể, tính hệ thống, tính khả thi, bởi lẽ, chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND vừa mang tính tổng thể, tính hệ thống, đồng thời, phải cụ thể. Các giải pháp cụ thể của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND bao gồm giải pháp thể chế, quy hoạch, kế hoạch, đề án, đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải pháp tổ chức, giải pháp tài chính, giải pháp về chế độ, giải pháp hợp tác quốc tế và các giải pháp khác.
Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế pháp luật về nhân lực ngành KSND:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND, trong đó thể chế pháp luật giữ vị trí trung tâm. Đảng ta khẳng định tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế là một trong ba khâu đột phá để phát triển đất nước. Pháp luật về nhân lực ngành KSND điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến nhân lực ngành Kiểm sát nói chung và các loại nhân lực cụ thể của ngành KSND nói riêng (hay theo cách gọi hiện nay là các chức danh cụ thể: Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên...). Đó là điều chỉnh về vai trò, địa vị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các loại nhân lực ngành KSND, danh dự, uy tín, việc bảo vệ nhân lực ngành KSND và những vấn đề khác có liên quan.
Về vấn đề này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ: Việc xây dựng thể chế về nhân lực tư pháp “theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”.
Quan điểm đó đã được thể chế hoá trong pháp luật hiện hành, trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật luật sư và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đó là các quy định về các tiêu chuẩn chung đối với nhân lực tư pháp nói chung, về các tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại nhân lực tư pháp nói riêng, chẳng hạn, các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên.
Nghiên cứu thực trạng các quy định đó cho thấy, việc điều chỉnh pháp luật về các tiêu chuẩn đối với nhân lực tư pháp nói chung, nhân lực ngành KSND nói riêng là còn hạn hẹp, chưa bao quát hết những vấn đề quan trọng của phát triển nhân lực tư pháp, trong đó có nhân lực ngành KSND, do vậy, chưa tạo ra cơ sở pháp luật đầy đủ cho phát triển nhân lực ngành KSND. Do đó, cần phải hoàn thiện pháp luật về nhân lực ngành KSND theo hướng điều chỉnh tập trung, đúng tầm vị thế, vai trò, vị trí, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên và các loại nhân lực khác của ngành KSND bằng đạo luật cụ thể. Cần phải tiến hành nghiên cứu lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước để soạn thảo và thông qua đạo luật đó trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta thời gian tới.
Thứ hai, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực ngành KSND trong kỷ nguyên phát triển mới:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển nhân lực ngành KSND nhằm chủ động tạo nguồn, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực ngành KSND giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn 2045 phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực ngành KSND nói chung và theo các loại nhân lực ngành Kiểm sát nói riêng; bảo đảm cơ cấu về trình độ, lứa tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, vùng miền, cả vĩ mô lẫn vi mô, bảo đảm số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng. Đặc biệt quy hoạch, kế hoạch, đề án đó cần phải chú trọng đến nhân tài ngành KSND, nhân lực chuyên nghiệp, nhân lực lãnh đạo, quản lý. Quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực ngành KSND là căn cứ để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nhân lực ngành KSND.
Thời gian qua, trong tiến trình cải cách tư pháp, các chủ thể có thẩm quyền đã xây dựng và thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển cán bộ tư pháp, từng bước nâng tầm công tác đó và đã đạt được những kết quả nhất định. Song thực tiễn cũng cho thấy, các quy hoạch, kế hoạch, đề án đó chưa cơ bản, chưa toàn diện, chưa hệ thống, chưa ngang tầm, do vậy, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Cần xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực ngành KSND và các quy hoạch cụ thể phát triển nhân lực ngành KSND (quy hoạch phát triển từng loại nhân lực tư pháp: Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, giảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý…) giai đoạn 2026 - 2030.
Dựa trên chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực ngành KSND, cần xây dựng kế hoạch cụ thể phát triển từng loại nhân lực cụ thể của ngành KSND.
Để hiện thực hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực ngành KSND, cần xây dựng các đề án cụ thể để phát triển nhân lực ngành KSND, chẳng hạn, đề án phát triển Kiểm sát viên giai đoạn 2026 - 2030, đề án phát triển Điều tra viên ngành KSND giai đoạn 2026 - 2030, đề án phát triển đội ngũ giảng viên ngành KSND giai đoạn 2026 - 2030. Nhà nước cần phải cung cấp và tạo ra các nguồn lực cần thiết để thực hiện có hiệu quả, chất lượng các đề án đó.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành KSND:
Cần phải xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp đối với từng loại nhân lực cụ thể của ngành KSND. Các loại chương trình đào tạo, bồi dưỡng cụ thể cần phải được thiết kế dựa trên hệ tri thức, hệ tiêu chuẩn đối với từng loại nhân lực cụ thể, theo hướng đổi mới, trang bị những tri thức mới, phúc đáp các đòi hỏi mới về tiêu chuẩn, không phải dựa vào năng lực hiện có của đội ngũ giảng viên, vào lợi ích trước mắt của cơ sở đào đạo, bồi dưỡng.
Về vấn đề này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Tư tưởng, quan điểm, nội dung này của Chiến lược cải cách tư pháp đã được thể hiện, cụ thể hóa trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tương ứng.
Nghiên cứu các chương trình đào tạo, bồi dưỡng hiện có đối với nhân lực tư pháp nói chung, nhân lực ngành KSND nói riêng cho thấy, một mặt, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đó từng bước đã được đổi mới, tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế, khu vực, nhưng mặt khác, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với nhân lực tư pháp nói chung, ngành KSND nói riêng. Do vậy, cần phải tiếp tục đổi mới các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành KSND để nâng cao chất lượng, hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tư pháp, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Việc đổi mới đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành KSND cần phải được tiến hành theo nhu cầu thực tiễn, theo tiêu chuẩn, chuyên môn hóa nhân lực ngành KSND: Chuyên môn hóa theo chức năng, nhiệm vụ của các loại nhân lực ngành KSND, chuyên môn hóa bên trong từng loại nhân lực ngành KSND, chuyên môn hoá theo các tiêu chuẩn khác.
Thứ tư, tuyển chọn, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân lực ngành KSND:
Hệ thống tuyển chọn, tuyển dụng hợp pháp, hợp lý, chặt chẽ và khoa học đóng vai trò rất quan trọng trong xây dựng và phát triển nhân lực ngành KSND. Tuyển chọn, tuyển dụng phải xuất phát và dựa vào quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực ngành KSND và theo nguyên tắc cạnh tranh, dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan để chọn được người tài, người giỏi, có đạo đức, người có khả năng thực hiện tốt, có chất lượng chức năng, nhiệm vụ được giao; thực hiện tốt giải pháp này sẽ tránh được sự lãng phí trong sử dụng nhân lực ngành KSND.
Trọng dụng nhân lực ngành KSND sẽ phát huy được tiềm năng, khuyến khích nhân lực ngành KSND sáng tạo, làm việc có trách nhiệm cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Cần phải trọng dụng, tôn vinh nhân lực có chất lượng cao, tin cậy và có chế độ đãi ngộ phù hợp với nhân lực ngành KSND.
Tiếp tục đổi mới tuyển chọn, tuyển dụng, trọng dụng, sử dụng nhân lực ngành KSND. Việc đổi mới đó phải được tiến hành theo hệ tiêu chuẩn ngày càng cao, đúng thực chất, đúng quy trình chặt chẽ, khoa học, đổi mới tư duy, nhận thức, hành động của những người làm công tác tuyển chọn, tuyển dụng, trọng dụng, sử dụng nhân lực ngành Kiểm sát, có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với công tác đó.
Thứ năm, đánh giá nhân lực ngành KSND:
Để đánh giá đúng nhân lực ngành KSND cần phải có hệ tiêu chí đánh giá mang tính khoa học, tính thực tiễn, phù hợp với các đặc điểm của nhân lực ngành KSND. Hệ tiêu chí đó phản ánh được kết quả hoạt động, trách nhiệm của nhân lực ngành KSND theo các tiêu chí chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và chính trị.
Hệ tiêu chí đánh giá nhân lực ngành KSND cần phải bao gồm các tiêu chí về lượng và các tiêu chí về chất, về trạng thái được đào tạo lại, được bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt. Các tiêu chí về lượng thể hiện ở số lượng công việc được giao, tần suất làm việc, ví dụ, số lượng các vụ việc được giao giải quyết, số lượng các bản án không bị sửa. Các tiêu chí về chất thể hiện tập trung ở chất lượng, hiệu quả của công việc đã hoàn thành, ví dụ, chất lượng của các quyết định được đưa ra. Trạng thái được đào tạo lại, được bồi dưỡng thể hiện ở số lượng và chất lượng các đợt tập huấn theo chuyên đề chuyên sâu liên quan đến chức năng, nhiệm vụ được giao, tập huấn về các văn bản pháp luật mới được ban hành, ở việc trang bị các kiến thức lý luận mới.
Hệ tiêu chí đánh giá nhân lực ngành KSND bao gồm các loại tiêu chí khác nhau: Các tiêu chí về chuyên môn nghiệp vụ, về đạo đức, về chính trị. Mỗi tiêu chí đều có các chỉ số tương ứng và các chỉ số đó cần phải bao quát hết nội dung của tiêu chí đó. Đối với từng loại nhân lực ngành KSND, ngoài các tiêu chí chung, còn có các tiêu chí riêng. Chẳng hạn, các tiêu chí về đạo đức công vụ là các tiêu chí chung đối với mọi nhân lực, còn tiêu chí về đạo đức trong lĩnh vực hoạt động tư pháp lại có tiêu chí riêng, đặc thù, gắn liền với các đặc điểm của hoạt động tư pháp.
Thứ sáu, chế độ, chính sách đối với nhân lực ngành KSND:
Về vấn đề này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ: “Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp”. Nội dung này của chiến lược chưa được triển khai thực hiện đầy đủ, mạnh mẽ trong thực tiễn, do vậy, chưa phát huy hết năng lực, khả năng, sự cống hiến của cán bộ tư pháp. Chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, mang tính đột phá về chế độ, chính sách đối với nhân lực tư pháp nói chung, nhân lực ngành Kiểm sát nói riêng.
Thứ bảy, tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất để phát triển nhân lực ngành KSND:
Cần tạo lập môi trường làm việc dân chủ, độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao để họ phát huy, cống hiến hết khả năng, sức lực và trí tuệ cho nền tư pháp nước nhà; tạo điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện và công cụ làm việc đầy đủ và hiện đại.
Nghị quyết số 49-NQ/TW rất chú trọng đến nội dung này với tư cách là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển nhân lực ngành KSND nói riêng, để cải cách tư pháp nói chung. Nghị quyết chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước.
Thứ tám, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nhân lực tư pháp:
Sự lãnh đạo của Đảng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp, trong đó có nhân lực ngành KSND. Nội dung sự lãnh đạo thể hiện ở việc Đảng đề ra các quan điểm, định hướng, giải pháp, các tiêu chí chính trị để phát triển nhân lực tư pháp. Trước hết, đó là các quan điểm, định hướng, giải pháp về giáo dục tư tưởng chính trị, quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động của đảng viên làm việc trong các cơ quan tư pháp. Tiếp đến, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trong việc xác định những vấn đề mang tính chiến lược trong công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp, trong việc phân công đồng chí cấp ủy viên để được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp.
Về vấn đề này, Nghị quyết số 49-NQ/TW chỉ rõ: “Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp”.
Nghị quyết số 27 - NQ/TW xác định: “Chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, công khai để cán bộ, đảng viên và Nhân dân biết, giám sát việc thực hiện”.
Những nội dung đó của Nghị quyết từng bước đã được hiện thực hóa trong công tác lãnh đạo của cấp ủy các cấp đối với phát triển nhân lực tư pháp, tập trung lãnh đạo sát thực về chính trị tư tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua. Công tác đào tạo, quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được các cấp ủy thực hiện thường xuyên, có hiệu quả.
Các cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ nhân lực tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ; tăng cường quản lý, kiểm tra hoạt động của đảng viên.
Tuy vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nhân lực tư pháp còn có những hạn chế nhất định. Đó là một số cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương chưa quán triệt, thực hiện đúng yêu cầu: “Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp”, chưa phù hợp với các đặc điểm của nhân lực tư pháp.
Chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nhân lực tư pháp theo hướng đưa ra hệ các tiêu chí và chủ trương thể chế hóa hệ các tiêu chí tuyển chọn, tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng, đánh giá nhân lực tư pháp, chế độ, chính sách đối với nhân lực tư pháp.
Võ Khánh Vinh - Võ Khánh Linh
Giải pháp nâng cao vị thế của Viện kiểm sát nhân dân trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp
-
1Về tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
-
2Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu hướng phát triển trong kỷ nguyên mới
-
3Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân trong kỷ nguyên phát triển mới
-
4Giải pháp nâng cao vị thế của Viện kiểm sát nhân dân trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp
-
5Vai trò kiểm soát quyền lực tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
-
6Chiến lược phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới
Bài viết chưa có bình luận nào.