Vai trò kiểm soát quyền lực tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

04/09/2025 08:46

(kiemsat.vn)
Hoạt động kiểm soát quyền lực của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một hình thức giám sát quyền lực mà ở đó giữa chủ thể thực hiện việc giám sát và đối tượng chịu sự giám sát không có mối liên hệ phụ thuộc nào về mặt tổ chức. Nói cách khác, đây là sự giám sát từ bên ngoài đối với đối tượng bị giám sát.

Có thể khẳng định rằng, Viện kiểm sát nhân dân là một chủ thể kiểm soát quyền lực tư pháp có vị trí độc lập, thống nhất, chuyên trách. Kiểm soát quyền lực tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân có vai trò thúc đẩy hoạt động tư pháp hiệu quả, bảo đảm cho hoạt động tư pháp luôn nằm trong quỹ đạo tuân theo pháp luật. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân luôn được đặt ở vị trí cao, ở tầm hiến định và đó chính là bảo đảm pháp lý cao nhất cho tính độc lập, bảo đảm năng lực, tính khách quan; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát.

Hoạt động kiểm soát quyền lực của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một hình thức giám sát quyền lực mà ở đó giữa chủ thể thực hiện việc giám sát và đối tượng chịu sự giám sát không có mối liên hệ phụ thuộc nào về mặt tổ chức. Nói cách khác, đây là sự giám sát từ bên ngoài đối với đối tượng bị giám sát.

Với tư cách là chủ thể thực hiện việc giám sát quyền lực, VKSND là một hệ thống tổ chức tập trung thống nhất. Đồng thời, hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND là hoạt động quyền lực được Hiến định (Điều 107 Hiến pháp năm 2013). Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước trên cơ sở Hiến pháp và nhân danh quyền lực nhà nước.

Đặc thù của sự kiểm soát quyền lực mà VKSND thực hiện chính là ở chỗ, về tính chất đó là việc sử dụng quyền lực, nhưng về chức năng và phạm vi thực hiện lại gắn liền với hoạt động tư pháp được “tố tụng hóa” tuyệt đối, hoàn toàn nằm trong quá trình tố tụng (hình sự, hành chính, dân sự…). Điều đó cho thấy tính ưu việt của việc kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, bởi nó được đặt trên nền tảng của các thủ tục pháp lý chặt chẽ - một tố chất mang ý nghĩa quan trọng nhất trong việc sử dụng và thực thi quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền.

Một đặc trưng khác của hoạt động kiểm soát quyền lực tư pháp của VKSND là mang tính chuyên biệt. Nói khác đi, các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung trước năm 2001 và kiểm sát hoạt động tư pháp hiện nay) và thực hành quyền công tố là những hoạt động nằm trong chức năng, nhiệm vụ chính yếu của VKSND. Tính chuyên biệt của kiểm soát quyền lực tư pháp của VKSND làm cho nó không bị lẫn lộn vào bất kỳ một nhánh quyền lực nào, cho dù đó là lập pháp, hành pháp hoặc tư pháp.

1. Nội dung kiểm soát quyền lực tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

1.1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất

Nội dung hoạt động kiểm soát quyền lực của VKSND được đặt trọng tâm vào việc bảo đảm pháp chế (phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật) và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây cũng chính là tính đặc thù của thiết chế VKSND so với các thiết chế kiểm tra, giám sát quyền lực khác trong bộ máy nhà nước. Điều này đã được nhấn mạnh rất rõ trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp, bảo đảm VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Một điều đáng chú ý khác là, mặc dù VKSND, kể từ thời điểm năm 2001, không tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ và các cơ quan khác của Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang, các viên chức nhà nước và công dân, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhưng pháp luật vẫn tiếp tục coi trọng vai trò của VKSND đối với các lĩnh vực này trong quá trình VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Bởi vì, trong quá trình đó, VKSND có khả năng không thể thay thế được là, thông qua các vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình phát hiện các vi phạm pháp luật, vi phạm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức, đơn vị. Trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát không chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp mà còn có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan (không phải là cơ quan tư pháp) áp dụng các biện pháp, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Khi hành vi, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị và nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Trong trường hợp đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND.

1.2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Trong giai đoạn này, hiệu lực kiểm soát quyền lực thể hiện qua việc VKSND sử dụng đúng đắn, kịp thời thẩm quyền phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và áp dụng các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân, hủy bỏ quyết định tạm giữ và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, VKSND là cơ quan có thẩm quyền duy nhất và trực tiếp tiếp nhận thông báo một cách đầy đủ và kịp thời kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ phía Cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Các tin báo, tố giác về tội phạm là cơ sở quan trọng để VKSND quyết định vấn đề về phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; hủy bỏ các quyết định tạm giữ và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Trong mọi trường hợp, các CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đều có trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho VKSND.

Bằng các hoạt động trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhiều năm qua, VKSND các cấp đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của tập thể và cá nhân, duy trì pháp chế, trật tự và kỷ cương xã hội. Một mặt, VKSND phát hiện kịp thời và đưa ra xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các trường hợp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của công dân và các tổ chức, đơn vị. Mặt khác, VKSND đã ngăn chặn sự vi phạm từ phía các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm và gây oan, sai. Nhờ đó, cùng với các cơ quan tư pháp khác, VKSND các cấp đã phát hiện, khởi tố nhiều vụ án hình sự, trong đó có nhiều vụ án lớn, trọng điểm trong các lĩnh vực: An ninh quốc gia, đất đai, ngân hàng, xây dựng cơ bản, kể cả trong các lĩnh vực công nghệ cao và có yếu tố quốc tế; các vụ buôn lậu, ma túy, giết người, cướp tài sản.v.v.

1.3. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự

Hoạt động của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự có hai mục đích rõ rệt, gồm: (i) Bảo đảm phát hiện, điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội (thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra); (ii) Phát hiện và khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra của các CQĐT và các cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra. Hai nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 14 và Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Luật tổ chức VKSND năm 2014), tại các quy định của Chương X và Chương XVI của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021, 2025 (BLTTHS năm 2015). Hai định hướng chức năng của VKSND ở giai đoạn điều tra rất gần về nội hàm, song không trùng lặp với nhau mà ngược lại là sự bổ sung cần thiết cho việc duy trì và bảo vệ pháp luật và pháp chế trong hoạt động điều tra vụ án hình sự.

Do mục đích và tính chất của tố tụng hình sự Việt Nam là xác định sự thật của vụ án nên CQĐT, hoạt động điều tra cũng nằm trong cỗ máy vận hành của cơ chế “đi tìm chân lý có thật” của vụ án, hơn thế nữa, đó chính là động lực đầu tiên phát động cỗ máy đó: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội” (Điều 15 BLTTHS năm 2015). Hoạt động tư pháp khởi đầu bằng việc lập ra hồ sơ vụ án hình sự (Điều 37 BLTTHS năm 2015) và sau khi kết thúc điều tra thì chuyển hồ sơ đó sang Viện kiểm sát để quyết định truy tố nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở hồ sơ đó nếu đồng ý thì Viện kiểm sát thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử.

Như vậy, có thể nói hồ sơ vụ án do CQĐT xác lập và củng cố, theo đó các tình tiết của vụ án, các chứng cứ chủ yếu thuộc quyền chủ động của cơ quan này có đưa vào hồ sơ hay không. Thêm vào đó, pháp luật còn xác định rằng chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (Điều 86 BLTTHS năm 2015). Trong toàn bộ quá trình của vụ án, các cơ quan nói trên có quyền thu thập chứng cứ thông qua thẩm quyền triệu tập những người biết về vụ án, nghe họ trình bày; quyền trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác; quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án (Điều 88 BLTTHS năm 2015).

Với vị trí chủ động của CQĐT, với thời gian không ngắn và tính khép kín, bí mật của hoạt động điều tra thì khả năng vi phạm các nguyên tắc tố tụng rất dễ xảy ra và khó bị phát hiện, xử lý. Điều đó lý giải sự cần thiết phải tăng cường sự giám sát từ phía các thiết chế khác của quyền lực nhà nước mà trước hết là tăng cường hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát, đối với hoạt động điều tra hình sự.

Nội dung kiểm soát quyền lực trong hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND được xác định theo hai hướng chủ yếu: (i) Quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong quá trình hoạt động điều tra nhằm bảo đảm các thủ tục và quyết định điều tra tuân thủ đúng pháp luật tố tụng; (ii) Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trực tiếp tham gia khi tiến hành các biện pháp điều tra. Những quy định này của pháp luật là sự cụ thể hóa chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Luật tổ chức VKSND (các điều 14,15) và BLTTHS năm 2015 (các điều 164, 165) đã quy định rõ quyền hạn của của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.

Nhằm tăng cường trách nhiệm công tố của VKSND đối với hoạt động điều tra, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ 07 trường hợp bắt buộc có sự tham gia của Viện kiểm sát, gồm các hoạt động: Khám nghiệm hiện trường; khám tử thi; đối chất; nhận dạng; nhận biết giọng nói; khám xét; thực nghiệm điều tra (các điều 189 - 191, 193, 201, 202, 204). Việc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra vừa là thẩm quyền, vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát khi cần kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ cho việc xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và khi phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tột phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục (Điều 165 BLTTHS năm 2015). Việc trực tiếp tiến hành điều tra trong những trường hợp trên đây có tác dụng quan trọng giúp Viện kiểm sát nắm chắc chứng cứ và tài liệu trong giai đoạn điều tra. Quá trình điều tra, truy tố cũng đã đặt ra vấn đề về sự cần thiết kiểm soát quyền lực trong chính các cấp VKSND. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy định, mọi quyết định ban hành trong giai đoạn truy tố phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định đó nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới ra quyết định đúng pháp luật (Điều 240 BLTTHS năm 2015).

Một trong những thẩm quyền tố tụng quan trọng có liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là thẩm quyền gia hạn thời hạn điều tra (Điều 172 BLTTHS năm 2015), gia hạn tạm giam bị can (Điều 173 BLTTHS năm 2015). Điều quan trọng ở đây là Viện kiểm sát phải bảo đảm để những thời hạn tố tụng đó được chấp hành một cách nghiêm chỉnh trong giới hạn luật định. Pháp luật tố tụng còn yêu cầu, trong thời gian tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì CQĐT phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (khoản 7 Điều 173 BLTTHS năm 2015). Có thể nói rằng, việc pháp luật quy định cho VKSND thẩm quyền phê chuẩn các quyết định và hành vi điều tra hình sự là một trong những kênh quan trọng để giám sát hoạt động điều tra. Tuy nhiên, vấn đề này đã và đang là một trong những nội dung được tranh luận, điều chỉnh, xem xét từ những góc độ và quan điểm khác nhau ở nhiều quốc gia.

1.4. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự

Bản chất pháp lý của việc VKSND thực hiện kiểm soát quyền tư pháp trong giai đoạn xét xử được xác định rất rõ ràng, đó là việc “buộc tội” và “kiểm sát” việc tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự.

Nội dung của hoạt động đó được xác định bao gồm việc công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội và trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; đưa ra các yêu cầu, kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân (các điều 18 và 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014). Có hai điểm chung của chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là: (i) Do cùng một chủ thể thực hiện - Kiểm sát viên theo dõi vụ án; (ii) Được thực hiện trong quá trình diễn ra phiên tòa xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

Điểm khác nhau của hai chức năng này nằm ở mục đích và nội dung của việc xác định và thực hiện các chức năng kể trên. Mục đích chung của chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử là truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Mục đích cụ thể của chức năng thực hành quyền công tố là thực hiện việc buộc tội bị cáo. Nội dung của chức năng này là duy trì quyền công tố với tư cách là hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên với tư cách là một bên tranh tụng và gánh hoàn toàn trách nhiệm cho cả quá trình điều tra, truy tố.

Trong khi đó, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử có mục đích bảo đảm để các hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật, bảo đảm để bản án, quyết định của Tòa án công bằng, đúng người, đúng tội.

Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Theo quy định của BLTTHS năm 2015 (Điều 279), Viện kiểm sát vừa có quyền đưa ra yêu cầu, đề nghị ngay trước khi mở phiên tòa và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm giải quyết các yêu cầu, đề nghị này. Nguyên tắc về việc xét xử trong phạm vi truy tố của Viện kiểm sát vừa thể hiện tính chủ động của Viện kiểm sát, vừa bảo đảm phân biệt rõ các chức năng tố tụng, thừa nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, nhiều bị cáo, có thể có nhiều Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (các điều 289 và 350 BLTTHS năm 2015). Trong quá trình tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm đưa ra các chứng cứ, tài liệu, lập luận để đối đáp đến cùng với từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (Điều 322 BLTTHS năm 2015). Tất cả những thẩm quyền và trách nhiệm đó nhằm đạt một mục đích cuối cùng là bảo đảm để có được bản án, quyết định công bằng, đúng pháp luật của Tòa án.

Nội dung luận tội của Viện kiểm sát phải có sự phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội hoặc vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, căn cứ pháp luật và các tình tiết khác của vụ án. Viện kiểm sát có thể đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật (Điều 321 BLTTHS năm 2015). Tính chất kiểm soát quyền lực thể hiện ở chỗ pháp luật đã quy định rất rõ trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến; Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của những người nêu trên, trong đó có ý kiến của Viện kiểm sát.

Vai trò và phương thức thực hiện việc kiểm soát quyền lực tư pháp của VKSND trong giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trước hết thể hiện ở việc sử dụng quyền kháng nghị, bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ở đây là kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định sơ thẩm đó. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa sơ thẩm (Điều 336 BLTTHS năm 2015). Hậu quả của việc kháng nghị là chưa được đưa ra thi hành những phần của bản án, quyết định bị kháng nghị, trừ những trường hợp phải thi hành ngay được quy định tại Điều 363 BLTTHS năm 2015, cụ thể là các trường hợp có quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ vụ án; tuyên bị cáo không có tội; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc được hưởng án treo hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam, hình phạt cảnh cáo. Khi có kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu với thời hạn gửi hồ sơ để nghiên cứu là 15 ngày đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh, 20 ngày đối với Viện kiểm sát cấp cao; trường hợp vụ án thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, thời hạn đó có thể dài hơn, nhưng không quá 25 ngày đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh và 30 ngày đối với Viện kiểm sát cấp cao (Điều 341 BLTTHS năm 2015). Viện kiểm sát được Tòa án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm trong vòng 02 ngày ngay sau khi Tòa án này quyết định mở phiên tòa và Viện kiểm sát được quyền giữ hồ sơ đó trong thời hạn 05 ngày. Cũng như trong phiên tòa xét xử sơ thẩm, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, sự có mặt của Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc để phát biểu quan điểm. Đòi hỏi này của pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKSND.

Xét về tính chất của các thẩm quyền tố tụng của Viện kiểm sát, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Viện kiểm sát có những thẩm quyền quan trọng đối với hoạt động xét xử như: Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để yêu cầu xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án (Điều 371 BLTTHS năm 2015). Theo đó, bản án hay quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị khi: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Viện kiểm sát có quyền sử dụng quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi nhận thấy có vi phạm pháp luật cả về nội dung và hình thức tố tụng.

Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ thuộc về VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh. Căn cứ để Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bao gồm các tình tiết sau đây: Có căn cứ chứng minh một cách thực tế lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật; có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án; vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; các tình tiết mới khác có tính chất làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.

Nếu như kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát thì thẩm quyền của Viện kiểm sát kháng nghị các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi căn bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó - thủ tục tái thẩm thì quyền kháng nghị này tuyệt đối thuộc về Viện kiểm sát (Điều 400 BLTTHS năm 2015). Về bản chất, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm là thẩm quyền mang tính chất kiểm tra, giám sát mà bản chất là kiểm soát quyền lực đối với hoạt động xét xử, cụ thể là đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.

1.5. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, dân sự, kinh doanh - thương mại

Các hoạt động chủ đạo của việc kiểm soát quyền lực của VKSND trong lĩnh vực hành chính, dân sự, kinh doanh - thương mại là Kiểm sát viên trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc; tiến hành thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định, trọng tâm là tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, vụ việc; kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện của đương sự trong vụ án, vụ việc dân sự. Phương thức chủ đạo của hoạt động này là kháng nghị, yêu cầu, kiến nghị: Kháng nghị và kiến nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Đối với lĩnh vực các quan hệ quản lý hành chính cũng như các quan hệ dân sự thì cách thức để kiểm soát quyền lực thông qua kháng nghị, yêu cầu, kiến nghị của VKSND là những cách hữu hiệu để Nhà nước tác động vào các quan hệ này, khi mà chủ thể các quan hệ đó là các cá nhân và pháp nhân - một bên (trong các vụ án hành chính) hoặc cả hai bên tranh chấp (trong các vụ án, vụ việc dân sự). Tính hữu hiệu đó thể hiện ở việc ngày càng nhiều kháng nghị được Tòa án chấp nhận. Thông qua các kiến nghị, Viện kiểm sát các cấp đã chỉ ra nhiều vi phạm như: Không tuân thủ thời hạn gửi thông báo thụ lý, bản án, quyết định cho Viện kiểm sát; không tuân thủ thời hạn giải quyết vụ án; vi phạm pháp luật trong việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đặc biệt, qua công tác kháng nghị, kiến nghị trong các vụ án hành chính, Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện nhiều vi phạm trong quản lý hành chính nhà nước, trong số đó có những vi phạm đã trở thành nguyên nhân của việc xuất hiện các điểm nóng, phức tạp, kéo dài, gây bức xúc trong Nhân dân.

1.6. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp thông qua hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và dân sự

Kiểm sát giam, giữ, thi hành án là lĩnh vực thực thi quyền lực nhà nước đặc thù, vì vậy luôn được coi là lĩnh vực quan trọng của VKSND.

Bản chất của kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam. Tính kiểm soát quyền lực thể hiện ở hậu quả pháp lý, theo đó, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị, quyền khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam như Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại giam có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát trong thời hạn không dưới 15 ngày, thậm chí phải thi hành ngay khi có quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật (điểm d khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức VKSND năm 2014).

Kiểm sát thi hành án hình sự cũng nhằm mục đích bảo đảm việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan Thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự. Ở lĩnh vực hoạt động này, các phương thức thực thi thẩm quyền của VKSND vẫn được quy định bao gồm kháng nghị, yêu cầu, kiến nghị, khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự. Đối tượng kháng nghị là hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự. Đối tượng được Viện kiểm sát yêu cầu là Tòa án, các cơ quan Thi hành án hình sự hoặc cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Theo đó, đối với Tòa án, đó là việc ra quyết định thi hành án: Đối với Tòa án và cơ quan thi hành án hoặc cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án tự kiểm tra việc thi hành án, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án. Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong thi hành án hình sự, xử lý nghiêm minh người vi phạm; có quyền trực tiếp kiểm sát việc thi hành án, hồ sơ thi hành án. Đặc biệt, Viện kiểm sát có quyền quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật. Trong tất cả các trường hợp nêu trên, có những yêu cầu từ phía Viện kiểm sát pháp luật đòi hỏi các cơ quan, cá nhân được yêu cầu hoặc phải thực hiện ngay, hoặc trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, hoặc có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời hoặc thi hành (Điều 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014).

Đối với việc thi hành án dân sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết định của Tòa án về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 64 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2022 (Luật thi hành án dân sự năm 2008)). Trong thời hạn 07 ngày kể từ khi nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án đã ra quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án phải chuyển văn bản kháng nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp và trong thời hạn 15 ngày, Tòa án cấp trên trực tiếp này phải mở phiên tòa để xét kháng nghị của Viện kiểm sát. Phiên họp này có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và quyết định của Tòa án được đưa ra ở đây sẽ có hiệu lực thi hành.

Trường hợp sau khi quyết định cho miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án có hiệu lực mà phát hiện người phải thi hành án có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản để xin miễn, giảm, trốn tránh việc thi hành án thì cơ quan Thi hành án dân sự, Viện kiểm sát đã đề nghị xét miễn, giảm có trách nhiệm đề nghị Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự xem xét việc kháng nghị quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo thủ tục tái thẩm.

Luật thi hành án dân sự cũng đã quy định chi tiết về thẩm quyền kháng nghị của VKSND đối với quyết định và hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự. Các chủ thể này có thể đồng ý hoặc không đồng ý với nội dung kháng nghị. Nếu đồng ý với kháng nghị thì các cơ quan, cá nhân đó phải thực hiện kháng nghị, nếu không đồng ý thì cần báo cáo với Thủ trưởng cơ quan Thi hành án cấp trên để giải quyết và quyết định của cấp này có hiệu lực thi hành (Điều 160, 161 Luật thi hành án dân sự năm 2008).

Ngoài ra, VKNND tối cao còn có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự. Đây cũng là một kênh quan trọng để bảo đảm vai trò giám sát quyền lực tư pháp của VKSND.

1.7. Viện kiểm sát nhân dân kiểm soát quyền lực tư pháp thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động của các cơ quan tư pháp

Giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động của các cơ quan tư pháp là lĩnh vực hết sức quan trọng, góp phần bảo đảm việc thực thi pháp luật, tuân theo pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Lĩnh vực này bao gồm hai nội dung: Hoạt động tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp thứ nhất, VKSND có trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tố tụng, trong đó bao gồm cả hành vi, quyết định của những người có thẩm quyền của VKSND khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong trường hợp thứ hai, khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, Viện kiểm sát sử dụng quyền yêu cầu các các cơ quan có thẩm quyền tương ứng tiến hành việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, cung cấp hồ sơ có liên quan; kiểm tra việc giải quyết đó và kết luận về nội dung tố cáo. Thủ tục và trình tự tiến hành những hoạt động này được quy định tại BLTTHS.

Có thể thấy rằng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định trong lĩnh vực tư pháp là chức năng quan trọng của VKSND cùng với hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với mục đích kiểm soát quyền lực tư pháp. Công tác này giúp Viện kiểm sát đánh giá đúng tình hình thực thi pháp luật, chất lượng của các hoạt động tư pháp. Qua đó, Viện kiểm sát có thể có thêm nguồn tin bổ sung về tình hình vi phạm và tội phạm, giúp kiểm soát vi phạm và tội phạm kịp thời và hiệu quả. Trên thực tế, công tác này có mối liên hệ mật thiết với hai chức năng của VKSND, đặc biệt là chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.

2. Định hướng và các giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm soát quyền lực tư pháp

Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ, VKSND đã thực sự chứng minh được vai trò không thể thay thế được của mình trong hệ thống bộ máy nhà nước và trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có quyền tư pháp. Chính vì vậy, quan điểm cần được khẳng định là tiếp tục đề cao vai trò, xác định đúng vị trí, chức năng và nhiệm vụ của VKSND trong các cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay và trong toàn bộ tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.

Theo đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đáp ứng yêu cầu kiểm soát quyền tư pháp đó là:

Thứ nhất, tăng cường hơn nữa tính độc lập của thiết chế VKSND trong cơ chế tổ chức quyền lực Nhà nước - bảo đảm quan trọng cho hiệu quả kiểm soát quyền lực tư pháp.

Một thiết chế quyền lực Nhà nước trong hệ thống thống nhất các thiết chế quyền lực nhà nước, cần hội đủ các yếu tố sau đây: (1) Bao gồm những cơ quan không chịu sự phụ thuộc theo quan hệ trên dưới đối với một cơ quan thuộc nhánh quyền lực khác hay của các cơ quan khác; (2) Có những chức năng pháp lý và đặc điểm tổ chức được Hiến pháp quy định; (3) Các cơ quan trong thiết chế là một hệ thống tổ chức, có thể tập trung hoặc phi tập trung nhưng thống nhất về chức năng và nhiệm vụ; (4) Các chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong thiết chế đó phải mang tính chất là những chức năng, thẩm quyền phổ quát mà không mang tính quản lý ngành.

Tính độc lập của VKSND với tính cách là một thiết chế trong bộ máy nhà nước của Nhà nước ta được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật ở hai mức độ: Sự độc lập của thiết chế VKSND và sự độc lập của Kiểm sát viên. Trong trường hợp thứ nhất, tính độc lập thể hiện ở nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành; trong trường hợp thứ hai, tính độc lập thể hiện ở chỗ, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND (Điều 109, Hiến pháp năm 2013). Đề cao vai trò độc lập của Kiểm sát viên cũng là để phù hợp với thông lệ chung của nhiều nước trên thế giới; tuy nhiên, tính độc lập của Kiểm sát viên luôn đặt trong quan hệ “song hành” với việc tuân thủ nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành”, theo đó Viện trưởng có vai trò quyết định và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của VKSND; Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật tố tụng nhưng phải tuân theo sự phân công và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình, đồng thời chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.

Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đòi hỏi tính độc lập cao của các Viện kiểm sát cũng như của Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các chức năng và nhiệm vụ tố tụng. Những quyền hạn và trách nhiệm tố tụng của Kiểm sát viên trong bối cảnh thực hiện nguyên tắc tranh tụng được đặt ra đòi hỏi Kiểm sát viên phải thực sự có bản lĩnh vững vàng, độc lập và sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, có tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với các biểu hiện vi phạm tố tụng, trước hết là các vi phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của nhà nước, của xã hội.

Thứ hai, tăng cường một số chức năng, nhiệm vụ mới cho VKSND nhằm phát huy vai trò và hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền tư pháp của VKSND.

Trong tố tụng hình sự, cần tiếp tục khẳng định thẩm quyền điều tra độc lập của Viện kiểm sát đối với các loại tội phạm nhất định nhằm hỗ trợ và bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng công tố. Thực tế hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao thời gian qua đã hỗ trợ, góp phần tích cực bảo đảm thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, với phạm vi thẩm quyền chỉ điều tra đối với một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp thì theo chúng tôi chưa bảo đảm hỗ trợ đầy đủ, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Vì vậy, tiếp thu kinh nghiệm Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, đề xuất cần mở rộng phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, không chỉ đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn đối với một số vụ án khác có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phạm vi ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị, trật tự xã hội như tội phạm tham nhũng, kinh tế có tổ chức với quy mô lớn, phức tạp.v.v.

Trong tố tụng dân sự, xét về thẩm quyền, theo Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta có thẩm quyền chủ yếu là kháng nghị mà không có quy định về khởi kiện các vụ, việc dân sự bảo vệ lợi ích công của Viện kiểm sát. Ngày 24/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 205/2025/QH15 về việc thí điểm VKSND khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công. Việc bổ sung thẩm quyền này đánh dấu bước tiến quan trọng, mở rộng vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự. Chúng tôi cho rằng, thời gian tới, cần bổ sung nội dung này vào Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống nhất và lâu dài cho hoạt động này.

Mặc dù được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, nhưng trong toàn bộ quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND các cấp đều được đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương. Bảo vệ pháp luật, bảo đảm pháp chế, duy trì kỷ cương xã hội, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật là mặt trận đấu tranh phức tạp, nhiều cam go, được đặt trong tổng thể các nhiệm vụ chính trị, tư tưởng kinh tế, xã hội, liên quan đến nhiều lĩnh vực và lợi ích của Nhân dân. Do đó, mặt trận này là của toàn dân, của các cấp, ngành, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cần khẳng định rõ ràng rằng, trong công cuộc bảo vệ pháp luật và pháp chế, các cơ quan pháp luật, các cơ quan tư pháp phải giữ vai trò nòng cốt. Hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật có Tòa án, Công an, Viện kiểm sát, Kiểm lâm, Biên phòng, Hải quan. Mỗi cơ quan, ngành đều có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ riêng và trên thực tế đã chủ động tích cực hoàn thành nhiệm vụ được giao; đã có sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, chưa có quy định của Hiến pháp và pháp luật về vai trò chủ trì phối hợp, trước hết là trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. Xuất phát từ tình hình đó, trên cơ sở đánh giá vị trí độc lập, chức năng chuyên về bảo vệ pháp luật của mình, VKSND xứng đáng và cần thiết được giao thực hiện vai trò đó.

Bên cạnh đó, các chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có phòng chống các tội phạm tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và công tác thống kê tội phạm cho thấy rằng, VKSND là cơ quan có chức năng chuyên biệt trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm, đồng thời cũng là cơ quan có chức năng giám sát chuyên biệt từ ngoài vào đối với các cơ quan khác, cùng với đó là tính thống nhất tập trung trong ngành. Với ba yếu tố làm nên đặc điểm của VKSND so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, việc giao vai trò phối hợp, kiểm tra giám sát hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm là hoàn toàn phù hợp, giúp tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác quan trọng đó.

Song song với hướng này cần nghiên cứu giao VKSND nhiệm vụ kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, quyết định của ban lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước để phòng ngừa và ngăn chặn những trường hợp ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng; khởi kiện vụ án hành chính những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện sai trái pháp luật có khả năng gây thiệt hại lớn cho lợi ích của Nhà nước, tập thể và các lợi ích công cộng khác.

Thứ ba, phân biệt rõ phạm vi chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng.

Khẳng định sự cần thiết của việc tăng cường chức năng công tố là khẳng định yêu cầu làm rõ vai trò chủ động của VKSND đối với toàn bộ hoạt động điều tra, phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án. Trước yêu cầu đó, chức năng công tố của VKSND mang một ý nghĩa kiểm soát và tự kiểm soát đặc biệt. Kiểm soát bao hàm trong đó quyền theo dõi, quyết định định hướng điều tra, truy tố, phối hợp hoạt động ở mức cao để bảo đảm chất lượng và kết quả điều tra tội phạm; tự kiểm soát bao hàm thẩm quyền xác định mức độ và phạm vi truy tố, tự chịu trách nhiệm về quan điểm truy tố, huy động, kết nối mọi kết quả của toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố để hình thành quan điểm, nội dung, phương hướng tiến hành hoạt động buộc tội trước tòa.

Đào Trí Úc

Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

(Kiemsat.vn) - Trong giai đoạn phát triển mới, việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, hiện đại hóa hoạt động kiểm sát và tăng cường kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực tư pháp sẽ là những điều kiện quyết định để Viện kiểm sát nhân dân thực sự phát huy vai trò là một thiết chế trọng yếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang