Trao đổi vướng mắc về miễn trách nhiệm hình sự tại khoản 3 Điều 29 BLHS 2015
(kiemsat.vn) Theo tác giả thì có thể vận dụng tinh thần của điều luật được quy định tại khoản 2 Điều 157 BLTTHS quy định căn cứ không khởi tố vụ án hình sự “… hành vi không cấu thành tội phạm” để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với A.
Cần hướng dẫn về miễn trách nhiệm hình sự tại khoản 3 Điều 29 BLHS 2015
Hiểu thế nào cho đúng về miễn TNHS tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015
Ảnh minh họa |
Để được miễn trách nhiệm hình sự người phạm tội phải có các điều kiện như thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, ngoài ra còn phụ thuộc vào cách đánh giá của các Cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) để xem xét có thể miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội được hay không.
Trường hợp A đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS 2015. Nhưng sau đó A đã kịp thời bồi thường thiệt hại thỏa đáng cho gia đình người bị hại và được người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự thì A có đủ điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 BLHS. Ngược lại nếu như lỗi hoàn toàn thuộc về A thì để đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tình hình tai nạn giao thông ngày càng nghiêm trọng trong giai đoạn hiện nay thì không nên xem xét việc miễn trách nhiệm hình sự đối với A trong trường hợp này.
Mặc dù luật không quy định cụ thể về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, nhưng theo tác giả thì có thể vận dụng tinh thần của điều luật được quy định tại khoản 2 Điều 157 BLTTHS quy định căn cứ không khởi tố vụ án hình sự“…hành vi không cấu thành tội phạm” để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Nếu căn cứ vào Điều 18 BLTTHS 2015 để khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, sau đó mới ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015 đối với A thì Cơ quan có thẩm quyền sẽ phải tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự phức tạp và tốn kém. Hơn nữa, nếu như biết trước rằng việc thực hiện các bước khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhưng sau đó sẽ miễn trách nhiệm hình sự thì việc đình chỉ đó là không hợp lý. Mặt khác, nếu khởi tố, tiến hành điều tra vụ án rồi mới đình chỉ thì A có một khoảng thời gian dài là bị can nên chắc chắn bản thân sẽ bị ảnh hưởng về tâm lý, sức khỏe, lý lịch cá nhân, gia đình..., trong khi miễn trách nhiệm hình sự là thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta.
Do vậy, vấn đề này cần sự hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao trong thời gian tới để áp dụng một cách thống nhất có hiệu quả và đúng mục đích.
-
1Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
-
2Hoàn thiện thiết chế VKSND theo yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
-
3Nâng cao chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao
Bài viết chưa có bình luận nào.