Trao đổi bài: “Vướng mắc trong xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh”

31/05/2018 16:22

(kiemsat.vn)
Qua nghiên cứu bài viết của tác giả Đặng Bá Hưng, VKSND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, đăng trên tạp chí Kiemsat.vn ngày 29/5/18 về một số vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, tác giả trao đổi như sau:

Ảnh minh họa

Thứ nhất, tại điểm b khoản 2 điều 268 BLTTHS quy định: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài”.

Như vậy, những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài được quy định như sau:

Tại mục 22 phần II Công văn số: 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp các vấn đề nghiệp vụ quy định: Không chỉ đối với các vụ án về các tội chiếm đoạt, mà đối với tất cả các loại vụ án nói chung, nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng trong vụ án có bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài, thì căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh”.

Tại khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 quy định:"...Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam.."

Từ đó có thể khẳng định, người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch người nước ngoài và người không có quốc tịch Việt Nam.

Tại khoản 1 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quôc tịch Việt Nam”.

Như vậy, trong ví dụ: Cơ quan điều tra cấp huyện đang tiến hành điều tra vụ án Nguyễn Văn A gây tai nạn giao thông làm chết chị Nguyễn Thị B thì phát sinh vấn đề dân sự là trong số người được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất của chị B có 01 người đang xuất khẩu lao động hợp pháp tại Đài Loan. Nếu họ có đơn đồng ý để một người ở trong nước đại diện cho mình giải quyết vấn đề dân sự thì vụ án này có thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hay không? và nếu không liên lạc được với họ thì Cơ quan điều tra cấp huyện đã quyết định tách phần dân sự để xác định vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện có đảm bảo đúng quy định hay không ?

Theo tác giả trong trường hợp này chị B có 01 người đang xuất khẩu lao động hợp pháp tại Đài Loan vẫn mang quốc tịch Việt Nam, không phải người nhà của chị B mang quốc tịch người nước ngoài. Mà điểm b khoản 2 Điều 268 BLTTHS năm 2015 quy định: “ vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài” có nghĩa là bị cáo, bị hại, đương sự có quốc tịch người nước ngoài mà không phải là quốc tịch Việt Nam và tài sản ở đây thuộc trường hợp tài sản ở nước ngoài chứ không phải tài sản của nước Việt Nam. Do vậy, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quốc tịch Việt Nam. Do đó, trong trường hợp vụ tai nạn nêu trên vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đối với phần dân sự nếu không liên lạc được với họ thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an cấp huyện tách phần dân sự để xác định vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015.

Ảnh minh họa

Thứ hai, tại điểm c khoản 2 điều 268 BLTTHS 2015 quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Trong trường hợp này, cần được hiểu như sau:

Tại điểm b khoản 5 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy định: Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra”.

Như vậy, trong trường hợp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành theo quy định của BLTTHS năm 2015, có nghĩa là vụ án xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc vụ án có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án thì mới thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Còn trong trường hợp vụ án kinh tế chức vụ thường liên quan đến cấp xã và các phòng ban ở cấp huyện thì vụ án này không thể coi là có liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành và thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Thứ ba, tại điểm c khoản 2 điều 268 BLTTHS 2015 chỉ quy định TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, còn đối với các vụ án mà bị cáo là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp trung ương thì vẫn thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án dân dân thành phố trực thuộc trung ương. Bởi vì, theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao như sau: Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định. Nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao như sau: Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Còn nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ quyền hạn như sau: Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị; giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định chỉ có Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án, vụ việc. Do đó, đối với các vụ án mà bị cáo là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp trung ương thì vẫn thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án dân dân thành phố trực thuộc trung ương.

Thứ tư, tại điểm c khoản 2 điều 268 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tính cao trong dân tộc ít người.

Tóm lại, theo quy định tại khoản 2 Điều 268 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể, chi tiết về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong các trường hợp sau: “Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người”.

Xem thêm>>>

Vướng mắc trong xác định thẩm quyền của TAND cấp tỉnh

Những án lệ đã được TAND tối cao công bố

(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang