Sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến trên thế giới và ở Việt Nam

14/04/2025 08:52

(kiemsat.vn)
Bài viết phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến, khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và xác định nội hàm của hoạt động này.

Bài viết phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến, khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và xác định nội hàm của hoạt động này. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia, thực tiễn bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu quả bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Hiến pháp ở Việt Nam trong tương lai.

Sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến là một đặc trưng của mọi xã hội dân chủ. Điều này đảm bảo rằng Hiến pháp - đạo luật cơ bản của một quốc gia, thực sự phản ánh các nguyện vọng, nhu cầu và ý chí của Nhân dân.

Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc thúc đẩy sự tham gia của Nhân dân vào quản trị quốc gia nói chung, vào quy trình lập hiến nói riêng, là một yêu cầu quan trọng. Về vấn đề này, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Gần đây nhất, Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới được Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thông qua ngày 09/11/2022 đã nêu rõ, cần: “Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”.

Mặc dù vậy, việc bảo đảm quyền của Nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội nói chung và quy trình lập hiến nói riêng ở nước ta vẫn còn những hạn chế. Bài viết này góp phần làm rõ và gợi mở cách thức khắc phục những hạn chế đó, để nâng cao hiệu quả sự tham gia của người dân trong quá trình lập hiến ở Việt Nam trong tương lai.

1. Khái niệm, nội hàm và ý nghĩa của việc bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến

1.1. Khái niệm

Để tìm hiểu về “sự tham gia của Nhân dân”, trước hết cần làm rõ khái niệm “tham gia”.

“Tham gia” là một thuật ngữ được sử dụng trong mọi lĩnh vực từ y tế, giáo dục, đến chính trị, pháp luật. Thuật ngữ này cần được hiểu theo nghĩa rộng, gắn với mức độ ảnh hưởng của người tham gia đối với các quyết định được đưa ra, mà không chỉ đơn thuần về số lượng người tham gia. Nói cách khác, quan điểm “càng nhiều người tham gia thì càng dân chủ” chưa phản ánh hết mục tiêu mà sự tham gia hướng đến. Theo cách tiếp cận đó, Carole Pateman và Sherry Arnstein đã phát triển mô hình bậc thang để đánh giá sự tham gia của công dân, trong đó ở những bậc thang thấp nhất, sự tham gia chỉ mang tính hình thức, người dân tham gia vào một quy trình nào đó nhưng chỉ được thông báo một chiều, do đó không tạo được ảnh hưởng nào đối với các quyết định được đưa ra bởi chính quyền, vì thế có thể xem là “chưa tham gia”. Ở những bậc thang cao hơn, người tham gia đã có cơ hội bày tỏ ý kiến của họ và thông tin đã được trao đổi cả hai chiều, song việc đưa ra quyết định cuối cùng vẫn hoàn toàn thuộc về chính quyền, vì thế mới chỉ được coi là tham gia một phần. Chỉ ở các bậc thang cuối cùng, khi mà cho phép người tham gia thực sự có “tiếng nói”, được lắng nghe và có ảnh hưởng đến các quyết định sẽ được đưa ra bởi chính quyền thì mới được xem là sự tham gia đích thực.

Như vậy, cần hiểu sự tham gia là một quá trình, bắt đầu từ việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, tư vấn cho đến khi đem lại tác động lên những quyết định được đưa ra bởi chính quyền. Các hình thức tham gia có thể khác nhau dựa trên hoàn cảnh của mỗi quốc gia, cộng đồng và khả năng, ý muốn của người dân, nhưng thông thường bao gồm:

- Thông tin: Cung cấp thông tin cho người dân để giúp họ hiểu về vấn đề, các lựa chọn và các giải pháp tiềm năng.

- Tham khảo ý kiến: Thu thập phản hồi từ người dân về các lựa chọn hoặc quyết định.

- Người dân chủ động nêu ý kiến: Người dân được nêu ý kiến và ý kiến đó được chính quyền xem xét trong suốt quá trình ra quyết định.

- Hợp tác với người dân: Nhà nước phối hợp với người dân để xác định các lựa chọn và giải pháp hợp lý.

- Ủy quyền cho người dân: Nhà nước trao quyền quyết định cuối cùng cho người dân.

Sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến thuộc về phạm trù rộng lớn hơn, đó là sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước và xã hội. Quy trình lập hiến được hiểu là toàn bộ các hoạt động xây dựng, sửa đổi hiến pháp của một quốc gia. Theo nghĩa đó, quy trình lập hiến là một trong những quy trình hoạt động có tính chính trị - pháp lý quan trọng nhất của một quốc gia. Trên thế giới, quy trình lập hiến của các quốc gia từ trước đến nay đã trải qua nhiều thay đổi, trong đó một sự thay đổi đáng kể là ngày càng coi trọng sự tham gia của Nhân dân. Có thể thấy rõ sự thay đổi đó qua quy trình xây dựng bản hiến pháp hiện đại đầu tiên của thế giới (Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787), mà hầu như chỉ có vai trò của một nhóm nhà lập hiến, cho đến các bản hiến pháp hiện đại (như Hiến pháp Nam Phi, Rwanda và Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam), trong đó có sự tham gia của người dân trong suốt quá trình. Nói cách khác, quan niệm truyền thống cho rằng lập hiến là công việc phức tạp, vì thế chỉ nên giao cho một nhóm tinh hoa phụ trách đến nay đã không còn phù hợp. Quan niệm hiện đại và phổ biến trên thế giới hiện nay cho rằng, lập hiến cần thiết và có thể có sự tham gia của Nhân dân, bởi lẽ:

Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản của Nhân dân để xác lập, giao quyền, giới hạn và kiểm soát quyền lực của Nhà nước (trong khi các văn bản pháp luật khác là của Nhà nước, để thực hiện quyền lực được Nhân dân giao phó là quản lý xã hội); vì vậy, Nhân dân phải tham gia vào quy trình lập hiến, để bảo đảm bản hiến pháp phản ánh đúng ý chí của Nhân dân.

Thứ hai, lập hiến phức tạp nhưng chỉ là về mặt kỹ thuật (về phương diện này sẽ do các chuyên gia đảm nhiệm), còn về mặt nội dung, hầu hết là những vấn đề người dân đều có thể hiểu và tham gia ý kiến, đặc biệt là khi các vấn đề đó được nêu ra và giải thích, phổ biến tới người dân một cách cụ thể và rõ ràng.

1.2. Nội hàm

Nhìn từ phương diện luật nhân quyền quốc tế, sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, xã hội (gọi chung là các vấn đề công cộng) là một quyền con người cơ bản được ghi nhận trong Điều 25 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966. Ủy ban Nhân quyền (cơ quan giám sát thực hiện ICCPR), trong Bình luận chung 25, đã giải thích nội hàm quyền này bao gồm quyền tham gia của công dân vào các quá trình dân chủ trực tiếp, xây dựng, sửa đổi hiến pháp hoặc các quyết định khác thông qua bầu cử hay trưng cầu dân ý.

Đi sâu hơn, sự tham gia của người dân được coi là một điều kiện tiên quyết trong bất kỳ giai đoạn nào của quy trình lập hiến. Thực tế trên thế giới hiện nay cho thấy, quy trình lập hiến thông thường bắt đầu với việc thiết lập các nguyên tắc và mục tiêu của hiến pháp; hình thành các quy định về thủ tục và nội dung; thảo luận về các vấn đề hiến pháp và nhu cầu của xã hội; thu thập ý kiến và kiến nghị của người dân; chuẩn bị dự thảo hiến pháp; công bố dự thảo lấy ý kiến… kết thúc bằng việc trưng cầu ý dân và ban hành hiến pháp. Tất cả các bước đó của quy trình lập hiến đều cần có và đều có thể có sự tham gia trực tiếp của người dân. Người dân có thể tham gia trực tiếp với tư cách cá nhân, hoặc gián tiếp với tư cách thành viên của các tổ chức xã hội trong các hoạt động đó. Để bảo đảm sự tham gia thực chất và hiệu quả của người dân trong tất cả các bước của quy trình lập hiến đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế pháp lý mà cho phép mỗi người dân được tiếp nhận thông tin, được tham vấn, đại diện và được giáo dục, tư vấn về những vấn đề liên quan đến hiến pháp và quy trình lập hiến.  

1.3. Ý nghĩa

Một phần ý nghĩa của sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến đã được nêu ở Mục 1.1, đó là bảo đảm quyền làm chủ của người dân, hay bảo đảm vị thế chủ thể của người dân trong một xã hội dân chủ. Trong một xã hội dân chủ, Nhân dân là chủ thể duy nhất, tối cao, vĩnh viễn của quyền lực chính trị, Nhà nước chỉ là một thiết chế công do người dân lập ra, được người dân trao một số quyền lực để thay mặt người dân quản lý, xử lý các vấn đề phát sinh trong xã hội (Nhà nước của dân, do dân, vì dân). Hiến pháp không chỉ là khế ước xã hội giữa người dân với nhau (theo Rút-xô), mà còn là khế ước giữa người dân với nhà nước (theo Liên hợp quốc), vì thế, người dân nhất thiết phải tham gia vào quy trình lập hiến, để bảo đảm tính chất chân thực của văn kiện đặc biệt quan trọng đó.

Là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của một quốc gia, một bản hiến pháp sẽ vô giá trị nếu nó không thể hiện ý chí và được sự chấp thuận của đại đa số người dân của quốc gia đó. Chỉ khi người dân đóng vai trò là chủ thể làm nên hiến pháp thì họ mới tích cực bảo vệ hiến pháp do chính họ làm ra. Theo nghĩa đó, sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến còn tác động đến việc bảo đảm sự tuân thủ hiến pháp. Về vấn đề này, Albert Einstein từng cho rằng: “Sức mạnh của hiến pháp hoàn toàn nằm ở quyết tâm bảo vệ nó của mỗi công dân. Chỉ khi mỗi công dân cảm thấy có nghĩa vụ phải góp phần bảo vệ thì các quyền hiến pháp mới được bảo đảm”.

Thực tế trên thế giới cho thấy, quy trình lập hiến bảo đảm sự tham gia của người dân có ý nghĩa to lớn đối với mọi cá nhân, cộng đồng và xã hội nói chung, vì nó trao quyền cho các bộ phận khác nhau trong xã hội, nên tránh được nguy cơ hiến pháp chỉ là văn bản phản ánh ý chí và bảo vệ quyền lợi của một nhóm tinh hoa. Sự tham gia vào quy trình lập hiến mang lại cho tất cả các tầng lớp trong xã hội cơ hội trình bày quan điểm và mối quan tâm của họ, qua đó tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết những xung đột lợi ích giữa các nhóm, tạo lập một xã hội công bằng, đồng thuận về chính trị, kinh tế, văn hóa, bảo vệ và hỗ trợ các nhóm yếu thế. Xét chung, nền dân chủ của nhân loại đến nay đã phát triển từ hình thức dân chủ tự do sang dân chủ có sự tham gia, vì thế, quy trình lập hiến cũng đã thay đổi theo hướng bảo đảm sự tham gia của người dân. Đây được coi là một sự phát triển của chủ nghĩa hợp hiến, hoặc được xem là một chủ nghĩa hợp hiến mới, mà trong đó sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến là một tiêu chí cơ bản để đánh giá tính hợp pháp và mức độ tiến bộ của một bản hiến pháp.

2. Sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến ở một số quốc gia và những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Các quốc gia trên thế giới đang áp dụng những quy trình lập hiến đa dạng, tuy nhiên, dù theo mô hình nào thì cũng đảm bảo quyền tham gia của Nhân dân, đặc biệt là qua việc trưng cầu ý dân về hiến pháp mới hoặc hiến pháp sửa đổi. 

Ví dụ, ở Ai-len, đề xuất sửa đổi Hiến pháp trước tiên phải được cả hai Viện của Quốc hội chấp thuận, sau đó được đưa ra trưng cầu dân ý. Khi cuộc trưng cầu dân ý đã được tiến hành, Tổng thống phải ký phê chuẩn Hiến pháp “ngay lập tức” mà không được phủ quyết. Một cách thức khác để đề xuất sửa đổi Hiến pháp ở Ai-len là thành lập hội nghị hiến pháp (đã từng được áp dụng vào năm 2012) để thảo luận về các đề xuất sửa đổi Hiến pháp. Hội nghị sẽ bao gồm 33 nhà lập pháp và 66 công dân, được lựa chọn ngẫu nhiên song đảm bảo sự đa dạng về mặt giới tính, tuổi tác, khu vực, trình độ học vấn và tình trạng kinh tế, xã hội.

Ở Nhật Bản, việc sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội đề xuất nhưng phải đạt được số phiếu ủng hộ của ít nhất 2/3 tổng số thành viên hai Viện của Quốc hội, sau đó phải được đa số Nhân dân chấp nhận trong một cuộc trưng cầu dân ý. Tu chính Hiến pháp sau khi được phê chuẩn phải được Hoàng đế ban hành ngay, nhân danh Nhân dân, mà không được phủ quyết. Quy trình này cho thấy chủ quyền nhân dân là nguyên lý cốt lõi trong quy trình lập hiến hiện nay của Nhật Bản - ngược lại với truyền thống trước đây xem chủ quyền tối cao về lập hiến thuộc về Hoàng đế.

Ở Hoa Kỳ, đề xuất sửa đổi Hiến pháp có thể từ Quốc hội (với sự đồng thuận 2/3 của cả hai Viện, Hạ viện và Thượng viện), hoặc thông qua một hội nghị hiến pháp mà Quốc hội triệu tập dựa trên yêu cầu từ 2/3 các cơ quan lập pháp của các bang. Có hai phương pháp để phê chuẩn Hiến pháp sửa đổi, đó là: Thông qua các cơ quan lập pháp của các bang, hoặc thông qua các cuộc họp tại các bang với Quốc hội liên bang. Tuy nhiên, cả hai phương pháp đều yêu cầu sự chấp thuận từ 3/4 số nghị sĩ của nghị viện các bang. Sự phê chuẩn của các bang thông qua cơ quan lập pháp bang hoặc thông qua hội nghị hiến pháp là cách thức để người dân ở các bang có thể bày tỏ ý chí của mình đối với việc sửa đổi Hiến pháp liên bang. Ở đây, sự tham gia của người dân được thể hiện thông qua việc thúc đẩy các đại diện của họ trong Quốc hội liên bang, hoặc nghị viện bang, để ủng hộ hoặc phản đối các sửa đổi Hiến pháp được đề xuất.

Quy định của các nước nêu trên cung cấp những giá trị tham khảo quan trọng cho Việt Nam, đó là cần có một quy trình lập hiến rõ ràng, minh bạch, đề cao sự tham gia của người dân. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của các nước Ai-len và Nhật Bản còn cho thấy, việc tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp sửa đổi là rất cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

3. Sự tham gia của Nhân dân vào xây dựng Hiến pháp ở Việt Nam: Thành tựu và phương hướng thúc đẩy

Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (1945) cho đến nay, nước ta đã ban hành 05 bản hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001 và 2013). Các bản hiến pháp này đều khẳng định chủ quyền nhân dân theo những cách thức khác nhau, trong đó quy định một cách trực tiếp là Hiến pháp các năm 1946, 1992 và 2013. Cụ thể, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng định tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định này của Hiến pháp năm 1992 (cũng tại Điều 2), đồng thời nêu rõ tại Lời nói đầu: “… Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Việc ghi nhận chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp cũng chính là khẳng định quyền tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến. Trên thực tế, ở nước ta kể từ năm 1946, người dân đã tham gia vào quy trình lập hiến, nhưng với mức độ và cách thức khác nhau. Trước Hiến pháp năm 2013, mức độ tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến còn hạn chế. Tuy nhiên, bước ngoặt trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013, khởi đầu từ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương (tháng 7/2011), trong đó nêu rằng: “… việc sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng và cần có cơ chế bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền”. Chủ trương đó được tái khẳng định và cụ thể hoá trong Kết luận của Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 5/2012), theo đó Đảng yêu cầu cần lấy ý kiến rộng rãi của Nhân dân, tham vấn ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý về nội dung sửa đổi Hiến pháp làm cơ sở cho Quốc hội quyết định.

Chủ trương nêu trên của Đảng đã được quán triệt, thực hiện nghiêm túc trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013. Cụ thể, ngày 20/12/2012, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã ban hành Kế hoạch số 216/KH-UBDTSDHP, trong đó xác định nội dung và tiến trình tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Kế hoạch đã chỉ ra nội dung, cách thức, lộ trình lấy ý kiến nhân dân, theo đó nội dung lấy ý kiến là toàn bộ Dự thảo Hiến pháp bao gồm Lời nói đầu; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; bảo vệ Tổ quốc; bộ máy nhà nước; kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp; việc lấy ý kiến được thực hiện thông qua nhiều cách thức như tuyên truyền, hướng dẫn, hội thảo, toạ đàm của các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương đến các hộ gia đình; thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

Từ chủ trương tiến bộ của Đảng và hành động kịp thời, hiệu quả của Quốc hội, việc bảo đảm sự tham gia của người dân trong việc xây dựng Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những kết quả rất tích cực. Tổng cộng đã có hơn 20 triệu ý kiến góp ý vào Dự thảo Hiến pháp năm 2013, cho thấy sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến là sôi nổi chưa từng có từ trước tới nay ở nước ta. Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế nhất định, cụ thể như: (1) Sự tham gia của người dân không đồng đều giữa các nhóm xã hội và giữa các vùng, miền (đánh giá sơ bộ, chỉ có người dân ở đô thị và thuộc nhóm trí thức, cán bộ, công chức tham gia tích cực, người dân ở nông thôn, miền núi và thuộc nhóm lao động còn ít tham gia); (2) Chất lượng tham gia còn hạn chế (chỉ có nhóm trí thức và một số cán bộ, công chức có khả năng nêu những ý kiến chuyên sâu, còn đại đa số người dân chỉ đơn thuần trả lời các câu hỏi trong đợt lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi do Quốc hội tổ chức); (3) Hình thức tham gia còn đơn giản (đa số người dân mới chỉ được tham gia góp ý, chưa được tham gia trưng cầu dân ý về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi).

Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất cập của khung pháp lý về quy trình lập hiến; cách thức, năng lực tổ chức thực hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhận thức, ý thức của người dân… Từ thực tế đó và việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, có thể nêu một số giải pháp nâng cao hiệu quả sự tham gia của Nhân dân vào quy trình lập hiến ở Việt Nam trong tương lai như sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp luật về sự tham gia của Nhân dân:

Trong Nhà nước pháp quyền, để người dân có thể tham gia chủ động, hiệu quả, cần có một khuôn khổ pháp luật đầy đủ, rõ ràng về các cơ chế và cách thức tham gia của người dân, gắn với từng công đoạn của quy trình lập hiến. Bên cạnh đó, pháp luật cần có các quy định tạo điều kiện thuận lợi tối đa để người dân chia sẻ, trao đổi, thảo luận về Dự thảo Hiến pháp, từ đó hình thành nên ý kiến một cách chất lượng nhất.

Từ cách tiếp cận trên, có thể thấy Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện một số đạo luật có liên quan như Luật trưng cầu ý dân, Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí, Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật tiếp công dân...; đồng thời, khẩn trương xây dựng Luật về hội để tạo ra một cơ chế pháp lý hoàn thiện cho sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến nói riêng, vào quản lý nhà nước và xã hội nói chung. Các đạo luật này cần được ban hành, sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo không gian rộng mở và thuận tiện cho người dân bày tỏ quan điểm, đóng góp ý kiến vào quy trình lập hiến.

Hai là, tiến hành công tác chuẩn bị, lên kế hoạch từ sớm:

Để đảm bảo sự tham gia hiệu quả của mọi tầng lớp nhân dân vào tất cả các giai đoạn của quy trình lập hiến, cần chủ động chuẩn bị, lên kế hoạch từ sớm, trong đó xác định rõ thời điểm và cách thức mà người dân có thể nêu quan điểm và ý kiến của mình về Dự thảo Hiến pháp. Việc lập kế hoạch đòi hỏi sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Quá trình lập kế hoạch nên bao gồm việc đánh giá các nguồn lực hiện có và khả năng thiết lập các mối quan hệ đối tác tiềm năng với các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế và các chủ thể khác. Một khi đã được thông qua, các kế hoạch cần được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới công chúng, theo cách thức dễ hiểu, dễ nhớ nhất.

Ba là, sử dụng đồng thời nhiều cơ chế, cách thức thúc đẩy sự tham gia của người dân:

Cần xây dựng và áp dụng đồng thời nhiều cơ chế, cách thức phù hợp với từng nhóm xã hội để thúc đẩy sự tham gia chủ động, tích cực, hiệu quả của người dân vào tất cả các giai đoạn của quy trình lập hiến. Việc khai thác những thành tựu của công nghệ thông tin để tạo lập một môi trường thuận tiện cho sự tham gia của người dân là không thể thiếu để đạt mục tiêu đó. Tuy nhiên, cần luôn kết hợp giữa cơ chế tham gia trực tuyến với các cơ chế tham gia truyền thống, chẳng hạn như tổ chức các cuộc họp tại khu dân cư, hay các diễn đàn tham vấn trực tiếp tại cộng đồng,… Dù có những đặc điểm khác nhau, có một yêu cầu chung với mọi cơ chế, cách thức, đó là tối đa hoá khả năng của các cơ quan nhà nước trong việc “lắng nghe” những quan điểm, nguyện vọng, ý kiến của người dân với Dự thảo Hiến pháp. Để đạt được mục tiêu đó, cần xem xét những trở ngại hay rào cản tiềm ẩn với sự tham gia của mỗi nhóm xã hội, từ đó thiết kế các phương án xoá bỏ những trở ngại hay rào cản đó, kiến tạo một môi trường thuận lợi, an toàn để người dân nêu quan điểm và ý kiến của mình.

Bốn là, công khai, minh bạch thông tin và hoạt động:

Quy trình lập hiến cần minh bạch nhất có thể. Điều đó đòi hỏi việc công khai rộng rãi thông tin về quy trình lập hiến và nội dung của Dự thảo Hiến pháp, cũng như tiến độ, kết quả và kế hoạch tiếp theo. Không chỉ vậy, Nhà nước cũng cần công khai thông tin về các cơ chế thu hút sự tham gia của công chúng, cách thức tập hợp, lưu trữ, phân tích, xử lý và tiếp thu ý kiến ​​đóng góp của công chúng, cũng như cách thức phản hồi với người dân tham gia vào quy trình lập hiến. Việc bảo đảm tính công khai, minh bạch thông tin và hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan sẽ góp phần đem lại sự tin cậy và ủng hộ của người dân với quy trình lập hiến.

Năm là, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội:

Để mọi người dân đều có thể tham gia vào quy trình lập hiến, cần có sự phối hợp hành động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Ví dụ, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội có thể phối hợp tổ chức các cuộc họp, hội thảo hay thực hiện các chiến dịch truyền thông để thu thập ý kiến ​​đóng góp của người dân. Các bên cũng có thể hợp tác để tổ chức các hoạt động đào tạo và xây dựng năng lực cho cán bộ các cơ quan nhà nước có liên quan, cho người dân, thành viên của các tổ chức xã hội và đại diện của các cộng đồng để họ có thể tham gia một cách hiệu quả và tự tin hơn trong quá trình này. Các tổ chức xã hội cũng có thể tham gia vào việc giám sát và đánh giá quy trình lập hiến để đảm bảo tính pháp quyền và minh bạch, công bằng. 

Sáu là, giáo dục công dân:

Giáo dục công dân được hiểu theo nghĩa rộng là mọi hoạt động tác động đến và giúp nâng cao nhận thức của người dân về một vấn đề pháp lý, xã hội nhất định. Giáo dục công dân là một yếu tố quan trọng của bất kỳ quá trình tham gia cộng đồng hiệu quả nào. Đối với những vấn đề tương đối rộng lớn và phức tạp như lập hiến, việc giáo dục công dân trước khi thực hiện quy trình lại càng cần thiết. Điều đó là bởi để tham gia hiệu quả vào quy trình lập hiến, đòi hỏi người dân phải có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về các quy trình, thủ tục, cũng như phải có kiến thức, thông tin nhất định về lập hiến. Giáo dục công dân cần được thực hiện trong suốt quy trình lập hiến và kể cả sau khi hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi đã được thông qua. Ở giai đoạn thứ hai, các chiến dịch giáo dục công dân sẽ đảm bảo rằng công chúng có thể hiểu và đánh giá được nội dung của hiến pháp mới hoặc hiến pháp sửa đổi. Cuối cùng, để thực hiện hiệu quả hoạt động giáo dục công dân, cũng cần có sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cơ sở học thuật, các cơ quan truyền thông. Bởi lẽ, mỗi chủ thể này đều có khả năng cung cấp kiến ​​thức, thông tin về quy trình lập hiến theo những cách khác nhau, tới những nhóm xã hội khác nhau.

Kết luận:

Hiến pháp của các quốc gia là văn bản thể hiện chủ quyền, ý chí và lợi ích của người dân. Vì vậy, quy trình lập hiến cũng cần bảo đảm tính dân chủ, thể hiện ở việc bảo đảm mọi người dân, với tư cách cá nhân hay nhóm, đều có thể tham gia vào quy trình đó, thảo luận, nêu ra quan điểm và ý kiến về các vấn đề và nội dung của Dự thảo Hiến pháp mà gắn với các quyền và lợi ích của họ.

 Sự tham gia của người dân vào quy trình lập hiến ở Việt Nam hiện là một yêu cầu quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện tại, sự tham gia đó có cơ sở chính trị vững chắc, cơ sở hiến định rõ ràng và có khuôn khổ luật định khá toàn diện. Từ những thành tựu đạt được trong việc bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Hiến pháp năm 2013, có thể khẳng định tính khả thi của hoạt động này. Trong khi đó, từ những hạn chế trong việc bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Hiến pháp năm 2013, có thể đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động quan trọng này trong tương lai, trong đó cần tính đến những yếu tố then chốt như khung pháp luật về sự tham gia của người dân vào các vấn đề công cộng, quy trình lập hiến, ý thức, năng lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhận thức, ý thức, sự hiểu biết về lập hiến của người dân.

Vũ Công Giao - Nguyễn Phương Uyên

Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử trong điều tra vụ án hình sự - khó khăn, vướng mắc và giải pháp

(Kiemsat.vn) - Từ thực tiễn một số vấn đề khó khăn, vướng mắc trong thu thập dữ liệu điện tử, phương tiện điện tử theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, dự báo những thách thức đặt ra trong thời gian tới, tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu thập dữ liệu điện tử trong điều tra vụ án hình sự.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang