Một số vướng mắc khi tạm ngừng phiên tòa

04/03/2024 07:42

(kiemsat.vn)
Tạm ngừng phiên tòa là quy định mới được bổ sung trong BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 nhằm đảm bảo việc xét xử nhanh chóng, kịp thời, tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn gặp một số vướng mắc, bất cập.

Tạm ngừng phiên tòa được quy định tại Chương XX - Những quy định chung về xét xử vụ án hình sự (thuộc phần thứ tư) trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (gọi tắt là BLTTHS năm 2015). Theo Điều 251 BLTTHS năm 2015, tạm ngừng phiên tòa được quy định cụ thể như sau:

“1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;

b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;

c) Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa.

2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa”.

Theo quy định trên, có thể xác định tạm ngừng phiên tòa được áp dụng trong phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Khi chưa có đủ chứng cứ để xác định các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, việc xác minh, bổ sung chứng cứ mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa, nhưng Tòa án xét thấy có thể bổ sung chứng cứ đó trong thời gian ngắn, hoặc khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian ngắn theo quy định thì Tòa án có thể quyết định tạm ngừng phiên tòa.

1. Về căn cứ tạm ngừng phiên tòa

Căn cứ tạm ngừng phiên tòa được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015 còn hạn chế, bất cập. Quy định này cần tách ra làm 02 trường hợp: Một là, đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần bổ sung quy định loại trừ việc tạm ngừng phiên tòa nếu họ không thể tiếp tục phiên tòa nhưng có người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dự khuyết thay thế; hai là, đối với người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa cần bổ sung quy định trường hợp họ do tình trạng sức khỏe hoặc lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa đó họ yêu cầu xét xử vắng mặt và Tòa án xét thấy có thể xét xử vắng mặt họ, trong trường hợp này thì không cần tạm ngừng phiên tòa.

Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 điều 251 BLTTHS năm 2015 như sau:

“1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:

… b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm ngừng phiên tòa, trừ trường hợp có người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dự khuyết thay thế; do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa, trừ trường hợp họ yêu cầu xét xử vắng mặt và Tòa án xét thấy sự việc họ vắng mặt vì không thể tiếp tục tham gia phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án”.

Bên cạnh đó, căn cứ tạm ngừng phiên tòa được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015 là “do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa” còn chưa cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, để đảm bảo nhận thức và áp dụng thống nhất đối với căn cứ trên, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về căn cứ đánh giá và xác định “tình trạng sức khỏe, lý do bất khả kháng và trở ngại khách quan” dẫn đến việc người có thẩm quyền và người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa.

Mặt khác, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại các điều 288, 289, 349, 350 BLTTHS năm 2015 về sự có mặt của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký và Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm để đảm bảo sự tương thích với căn cứ tại điểm b khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015. Theo các điều luật trên khi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có người dự khuyết thay thế thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Vì vậy, các điều 288, 289, 349, 350 BLTTHS năm 2015 cần bổ sung quy định trường hợp những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng này không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày khi tạm ngừng phiên tòa, mà không phải mọi trường hợp đều hoãn phiên tòa như quy định tại Điều 288 và Điều 289 Bộ luật này. Mặt khác, tại Điều 288 BLTTHS năm 2015 cần bổ sung quy định trường hợp thành viên Hội đồng xét xử vắng mặt mà không có người thay thế thì phải hoãn phiên tòa, đây là một nội dung quan trọng còn thiếu trong quy định của BLTTHS năm 2015.

2. Về thẩm quyền, thủ tục tạm ngừng phiên tòa

Điều 251 BLTTHS năm 2015 không quy định thẩm quyền ra quyết định tạm ngừng phiên tòa thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử, hay Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. Theo các điều 44, 45, 46 BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán (bao gồm cả Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) và Hội thẩm thì cũng không quy định về thẩm quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa cho các chủ thể này.

Tác giả đề xuất bổ sung quy định tại Điều 251 BLTTHS năm 2015, xác định rõ thẩm quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa thuộc về Hội đồng xét xử. Điều này là phù hợp, bởi việc xem xét và quyết định các vấn đề của vụ án tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử theo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cũng như nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Việc tạm ngừng phiên tòa chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, sau khi hết thời hạn tạm ngừng thì vụ án tiếp tục được xét xử và việc xét xử này là sự tiếp nối quá trình tố tụng của phiên tòa đã mở trước khi tạm ngừng mà không phải xét xử lại từ đầu, tại phiên tòa mọi vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Điều này cũng tương thích với quy định về thẩm quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa trong vụ án dân sự và vụ án hành chính đều thuộc về Hội đồng xét xử.

Cần ban hành hướng dẫn cụ thể về việc tạm ngừng phiên tòa phải được thực hiện bằng văn bản. Do BLTTHS năm 2015 chưa quy định rõ, mà chỉ quy định là việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết. Do đó, cần ban hành biểu mẫu quyết định tạm ngừng phiên tòa hình sự, xác định rõ những nội dung của quyết định để đảm bảo áp dụng thống nhất trên thực tế.

Theo Điều 47 BLTTHS năm 2015 thì trách nhiệm ghi biên bản phiên tòa thuộc về Thư ký Tòa án. Nếu trong trường hợp Thư ký Tòa án không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà phiên tòa phải tạm ngừng thì người sẽ ghi việc tạm ngừng phiên tòa vào biên bản phiên tòa là ai? Nếu chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác mà ghi biên bản phiên tòa rồi ký tên vào biên bản phiên tòa trong khi BLTTHS không quy định nhiệm vụ, trách nhiệm quyền hạn đó có bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không? Tác giả đề xuất cần quy định cho một thành viên Hội đồng xét xử ghi vào biên bản phiên tòa việc tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp phiên tòa tạm ngừng do Thư ký Tòa án không thể tiếp tục tham gia phiên tòa.

Sử dụng “Bảng nội dung cần giải quyết” trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm

(Kiemsat.vn) - Bài viết chia sẻ sáng kiến: Giải pháp sử dụng “Bảng nội dung cần giải quyết” trong công tác nghiên cứu, báo cáo, duyệt án và kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm, nhằm trao đổi kinh nghiệm để từng bước nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm.

Về lựa chọn quy phạm pháp luật trong xử lý tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia

(Kiemsat.vn) - Lựa chọn quy phạm pháp luật là nội dung cơ bản của áp dụng pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, nhằm đảm bảo cơ sở pháp luật và việc áp dụng pháp luật chính xác, khoa học, đạt hiệu quả cao.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang