Một số vấn đề về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng
(kiemsat.vn) Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiểm sát việc giải quyết hàng ngàn vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng kịp thời, đúng pháp luật; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; đồng thời, kịp thời phát hiện những vi phạm, thiếu sót của Tòa án, tổ chức tín dụng, người vay vốn, người liên quan khác để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm và phòng ngừa.
Bàn về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền im lặng trong tố tụng hình sự
Trao đổi về nội dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo quy định của BLTTHS năm 2015
Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1. Đặc trưng của án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ngày càng nhiều và càng có giá trị lớn, lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Để đáp ứng yêu cầu này, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng phát triển cả về quy mô, chất lượng và vốn; đồng thời, sự phát triển về số lượng các TCTD đã hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh đẩy mạnh quy mô, hoạt động, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán, vi phạm hợp đồng bảo đảm tiền vay dẫn đến phát sinh tranh chấp.
Các vụ án kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) là tranh chấp mà bên vay và bên cho vay đều có mục đích lợi nhuận, thuộc lĩnh vực về hợp đồng thương mại nói chung, có sự thỏa thuận bình đẳng của các bên, song chúng có những đặc trưng riêng, đó là:
(1) Về quan hệ tranh chấp: Tranh chấp HĐTD là một dạng về tranh chấp hợp đồng, bản chất là quan hệvay mượn, có lãi giống như các hợp đồng vay tài sản thông thường, nhưng nhằm mục đích phục vụ sản xuất, kinh doanh (lợi nhuận). Bên cạnh HĐTD, thường kèm theo các biện pháp bảo đảm là thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh… của chính người vay tiền hoặc của bên thứ ba. Về hình thức, HĐTD và hợp đồng bảo đảm được thể hiện bằng văn bản, nội dung thường áp dụng theo mẫu của TCTD. Nội dung tranh chấp bao gồm nghĩa vụ thanh toán vốn, lãi suất, tiền phạt và xử lý tài sản bảo đảm. Đối tượng tranh chấp đa số là tiền Việt Nam đồng, một số trường hợp khác là vàng, ngoại tệcó nguồn gốc là vốn tự có của TCTD hoặc vốn huy động của khách hàng; tiền lãi trong hạn, quá hạn; bên cạnh đó tài sản bảo đảm (phổ biến nhất là quyền sử dụng đất, máy móc, nhà ở, nhà xưởng…) cũng là đối tượng tranh chấp khá gay gắt và các khoản khác.
(2) Về chủ thể tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện thường là chủ thể đặc biệt là TCTD (bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân) và tổ chức mua bán nợ của các TCTD. Tuy nhiên, cá biệt cũng có trường hợp nguyên đơn là khách hàng vay tiền khởi kiện TCTD về cách tính lãi suất phát sinh từ HĐTD hoặc kiện về việc bảo quản, xử lý tài sản bảo đảm.
(3) Về pháp luật giải quyết tranh chấp: Pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp chủ yếu là Bộ luật Dân sự (BLDS), những nội dung đã được quy định trong luật chuyên ngành thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành, như Luật các TCTD, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật nhà ở, pháp luậtvề giao dịch bảo đảm…
(4) Về phương thức, thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Pháp luật quy định có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp bằng tố tụng tại Tòa án, trọng tài, hòa giải thương mại hoặc hoà giải trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết. Thực tế, đương sự thường lựa chọn phương thức tố tụng Tòa án để giải quyết. Trong phương thức Tòa án, đa số các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, trừ những tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo khoản 2 Điều 464 BLTTDS năm 2015 và một số trường hợp “xét thấy cần thiết” theo khoản 2 Điều 37 BLTTDS năm 2015 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp tỉnh.
2. Những dạng vi phạm phổ biến và nguyên nhân
2.1. Vi phạm của đương sự (khách hàng, người thứ ba thế chấp, cầm cố tài sản)
- Vi phạm của khách hàng (người vay/bị đơn):
Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Đây là vi phạm phổ biến, đặc trưng nhất của khách hàng, người vay vốn trong các vụ án tranh chấp HĐTD, bao gồm vi phạm nghĩa vụ thanh toán một phần hoặc toàn bộ tiền vay gốc và (hoặc) tiền lãi khi quá hạn thanh toán, dẫn đến việc TCTD phải chuyển sang nợ quá hạn (mặc dù chưa đến thời hạn xác định theo hợp đồng), áp dụng lãi suất quá hạn và đây là lý do cơ bản dẫn đến phát sinh nhiều vụ án tín dụng Toà án thụ lý, giải quyết buộc khách hàng phải thanh toán tiền và xử lý tài sản bảo đảm cho TCTD.
Chiếm dụng vốn vay vào mục đích khác: Khách hàng chiếm dụng vốn vay sử dụng vào mục đích khác với kê khai đăng ký trong hồ sơ vay, như vay để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, nhưng thực chất lại đầu tư vào bất động sản, khi đất đai hạ giá thì mất khả năng trả nơ;̣hoặc sử dụng vốn vay góp vốn vào các doanh nghiệp, mua trái phiếu, chuyển tiền ra nước ngoài dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ.
Khai báo không trung thực về tài sản bảo đảm: Người vay tiền đồng thời là người thế chấp, cầm cố tài sản kê khai không đầy đủ những người có quyền đối với tài sản (như bỏ sót vợ hoặc chồng đối với tài sản đứng tên một người trong thời kỳ hôn nhân, hoặc bỏ sót thành viên hộ gia đình) để tham gia ký hợp đồng bảo đảm. Trường hợp khác, người sử dụng tài sản thế chấp trước đó đã kê khai nguồn gốc tài sản không đúng để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó dùng tài sản này thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ trả tiền vay, ví dụ tài sản thừa kế nhưng kê khai là đất khai hoang để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc đất đứng tên giúp người khác nhưng vẫn thế chấp vay vốn TCTD mà không được sự đồng ý của chủ tài sản đích thực hoặc biết tài sản đang “có vấn đề” nên vội vàng thế chấp vay tiền để trục lợi.
Cố tình giấu địa chỉ: Một số trường hợp, sau khi tổ chức, cá nhân nhận được vốn vay đã thường xuyên thay đổi địa chỉ trụ sở, địa chỉ thường trú, tạm trú, không thông báo cho TCTD hoặc người có thẩm quyền biết địa chỉ của mình nhằm trốn tránh việc trả nợ.
- Vi phạm của người thứ ba thế chấp, bảo lãnh, cầm cố để bảo đảm việc vay vốn của người vay:
Người thứ ba thế chấp trong mối quan hệ tín dụng được đề cập ở phần này là người có tài sản bảo đảm cho khoản vay của người khác, không phải là người đứng tên vay tiền. Có 02 nhóm chủ thể: (1) Người thứ ba thế chấp không được hưởng lợi ích từ việc vay tiền, không nhận được tiền vay, nhưng phải gánh chịu hậu quả rất nặng nề từ việc xử lý tài sản bảo đảm khi người vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán (mà thực tế cho thấy người vay tiền lại thường vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản của người thứ ba, so với việc người vay bảo đảm bằng chính tài sản của mình, do người vay ỷ lại vào việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm của người thứ ba). Mức độ vi phạm nghĩa vụ HĐTD trong nhóm này thường cao hơn rất nhiều so với việc vi phạm nghĩa vụ trong HĐTD mà người vay dùng chính tài sản của mình để bảo đảm; (2) Người thứ ba thế chấp mới thực sự là người vay vốn, nhận tiền vay, nhưng do không thể đứng tên vay tiền được (do lịch sử tín dụng không tốt, không vay được nhiều tiền so với nhu cầu…) nên đã nhờ pháp nhân đứng tên vay hộ và thế chấp tài sản của mình, sau đó nhận lại tiền từ pháp nhân vay hộ để sử dụng và bồi dưỡng cho người vay hộ một khoản tiền, nhiều trường hợp không trả được tiền vay cũng không chịu xử lý tài sản thế chấp để trả nợ ngân hàng.
Vi phạm của các nhóm chủ thể này thường thấy là: Chống đối quyết liệt việc buộc giao tài sản, hoặc dùng những thủ đoạn như đưa thêm những người quản lý, sử dụng tài sản, làm thay đổi hiện trạng tài sản bảo đảm như thực hiện việc xây dựng, cơi nới nhà, công trình trên đất… với mục đích gây khó khăn cho bên yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm hoặc xúi giục người khác khởi kiện yêu cầu chia tài sản đang bị cưỡng chế theo Điều 75 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, mục đích là để kéo dài, gây khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp.
2.2. Vi phạm của tổ chức tín dụng
- Thiếu kiểm tra hồ sơ vay của doanh nghiệp và ký kết các phụ lục hợp đồng cần thiết: Khi các doanh nghiệp vay vốn, TCTD thiếu kiểm tra nên không phát hiện hồ sơ chưa đầy đủ, như: Thiếu các biên bản họp hội đồng thành viên hoặc hội đồng quản trị theo quy định của Luật doanh nghiệp, phạm vi thẩm quyền của người trực tiếp ký hợp đồng vay tài sản và ký hợp đồng bảo đảm, phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sơ sài, khả năng trả nợ thiếu khả thi, không thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay; thiếu các cam kết của người có tài sản bảo đảm trong trường hợp bảo đảm cho nghĩa vụ của nhiều HĐTD phát sinh sau khi ký hợp đồng bảo đảm (gần đây phát sinh nhiều tranh chấp từ phía người thứ ba bảo lãnh thế chấp cho nghĩa vụ của bên vay do họ cho rằng phạm vi bảo đảm của họ cho những HĐTD cụ thể và có phạm vi bảo đảm giới hạn).
- Thiếu kiểm tra hoặc kiểm tra không chặt chẽ tài sản thế chấp: Tổ chức tín dụng không kiểm tra hoặc kiểm tra không chặt chẽ tài sản thế chấp, do nhiều nguyên nhân như một số nhân viên tín dụng thông đồng với người vay, hoặc do sơ suất, nhầm lẫn trong việc xác định tài sản thế chấp…, không xem xét, đối chiếu tài sản trên giấy tờ với tài sản trên thực tế, không quay phim, chụp hình, lập biên bản mô tả tình trạng thực tế của tài sản, nên không phát hiện sự khác nhau giữa tài sản thể hiện trên giấy tờ với tài sản trên thực tế. Ví dụ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể hiện tài sản trên đất, nhưng thực tế lại có căn nhà trên đất, hoặc không phát hiện có người khác (không phải người đứng tên trong giấy tờ) đang quản lý, sử dụng tài sản… Hiđnj nay, chưa có quy trình thẩm định tài sản cho vay thống nhất của các TCTD, mà mỗi TCTD có những cách thức, quy định riêng về việc thẩm định tài sản khi cho vay.
- Nhận thức chưa đầy đủ về người thứ ba ngay tình: Bộ luật Dân sự năm 2015 bảo vệ chặt chẽ hơn người thứ ba ngay tình (trong đó có TCTD) so với BLDS năm 2005. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về người thứ ba ngay tình trên thực tiễn hiện nay cho thấy, TCTD phải chứng minh mình thực sự ngay tình, không thể biết về tình trạng pháp lý của tài sản đang bị tranh chấp. Trong một số trường hợp, Tòa án vẫn không chấp nhận TCTD là người thứ ba ngay tình khi TCTD không làm đúng, đầy đủ trách nhiệm trong việc xem xét, thẩm định tài sản thế chấp như thiếu kiểm tra, không phát hiện tài sản đang tranh chấp mặc dù tài sản có treo biển báo tài sản tranh chấp, tài sản đứng tên người thế chấp nhưng do người khác có quyền đang trực tiếp quản lý, sử dụng và họ thường xuyên có mặt trên tài sản đó một cách công khai.
- Không trưng cầu tổ chức thẩm định giá độc lập: Các TCTD không trưng cầu tổ chức thẩm định giá độc lập để định giá trị thực của tài sản, mà sử dụng việc định giá nội bộ, nên việc định giá trong nhiều trường hợp thiếu khách quan, không sát với giá thị trường, nhất là đối với những tài sản có giá trị lớn, phức tạp, có trường hợp định giá tài sản cao hơn giá trị thực tế để cho vay nhiều hơn, sau đó khách hàng không có khả năng trả nợ, TCTD đứng trước nguy cơ không thu hồi một phần vốn vay và lãi.
- Tổ chức tín dụng thiếu kiểm tra, quản lý, theo dõi việc sử dụng vốn vay: Các TCTD thiếu kiểm tra, theo dõi việc sử dụng vốn vay để người vay sử dụng không đúng mục đích, nhiều trường hợp dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán, bỏ trốn. Thậm chí, có trường hợp còn cho rằng, ngân hàng cho vay đã có tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay, không coi trọng đến việc theo dõi sử dụng vốn vay, nếu sử dụng vốn vay không đúng, không hiệu quả thì đã có tài sản bảo đảm để xử lý.
2.3. Vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng
Đối với việc vi phạm thời hạn giải quyết vụ án quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015 thì Viện kiểm sát căn cứ Điều 21 BLTTDS năm 2015 thực hiện quyền kiến nghị khắc phục vi phạm. Việc kiến nghị được thực hiện theo mẫu số 05/DS (đối với từng vụ án cụ thể) mẫu số 06/DS (đối với kiến nghị tổng hợp) được ban hành kèm theo Quyết định số 410/QĐ-VKSTC.
- Bỏ sót người tham gia tố tụng: Không ít trường hợp, Tòa án bỏ sót thành viên hộ gia đình tham gia tố tụng là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 212 BLDS năm 2015 (Điều 109 BLDS năm 2005), dẫn đến bản án, quyết định bị hủy, sửa.
- Xác định việc phạt vi phạm không đúng: Qua kiểm sát cho thấy, khi người vay vi phạm nghĩa vụ quá hạn thanh toán, TCTD chuyển sang lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, ngoài ra, một số HĐTD còn quy định về phạt vi phạm đối với việc quá hạn thanh toán này. Xét về bản chất, đây là việc phạt chồng phạt; khi phát sinh tranh chấp, nhiều Tòa án căn cứ thỏa thuận tại HĐTD đã công nhận điều khoản này là không đúng.
- Không xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản bảo đảm: Nhiều trường hợp Tòa án không xem xét thẩm định tại chỗ tài sản bảo đảm, vì cho rằng không có ai yêu cầu, hoặc trường hợp vụ án bị hủy để xét xử lại thì Tòa án cho rằng giai đoạn xét xử trước đây đã xem xét thẩm định tại chỗ. Vi phạm này dẫn đến có bản án, quyết định bị huỷ ở cấp giám đốc thẩm.
Mặc dù trong nhiều vụ án, đương sự không yêu cầu xem xét, thẩm định tài sản thế chấp, nhưng xét thấy cần thiết thì Tòa án phải tiến hành, vì qua thực tiễn kiểm sát cho thấy, nhiều tài sản được thể hiện trên giấy tờ khác so với thực tế về diện tích, vị trí, tài sản trên đất, qua thời gian giải quyết nhiều lần, tài sản bảo đảm có thể có những biến động, như có sự thay đổi về tài sản trên đất, người quản lý tài sản… Khi xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản bảo đảm là nhà đất, phải kiểm tra chặt chẽ, mô tả đúng, đầy đủ hiện trạng tài sản thế chấp, đo vẽ, xác định chính xác, cụ thể vị trí tài sản (trường hợp cần thiết phải có bản ảnh để quan sát tài sản trên thực tế); đồng thời xác định người có quyền đối với tài sản thế chấp, hoặc ai đang quản lý, sử dụng tài sản thế chấp và tài sản thế chấp trên thực tế có khác gì so với tài sản thể hiện trên giấy tờ hay không để giải quyết vụ án một cách toàn diện, triệt để.
- Việc tuyên hợp đồng thế chấp bị vô hiệu không đúng: Thực tế, xảy ra nhiều trường hợp trên đất có nhiều loại tài sản mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất được thế chấp, có tài sản thuộc sở hữu của người khác. Khi giải quyết, một số Tòa án tuyên vô hiệu toàn bộ (hoặc vô hiệu một phần) hợp đồng thế chấp, trong khi hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật là không đúng. Vì vậy, khi xem xét đến hiệu lực của hợp đồng thế chấp, BLDS năm 2015 đã quy định mới 02 điều luật (Điều 325 về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất, Điều 326 về thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất); đồng thời có quy định mới bảo vệ người thứ ba ngay tình (Điều 133), Công văn giải đáp nghiệp vụ số 02/2021/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao (Mục 1 Phần III) và đã có 03 án lệ liên quan đến hiệu lực của hợp đồng thế chấp. Nhìn chung, trường hợp hợp đồng thế chấp được ký kết tự nguyện, được công chứng, tài sản đã được TCTD xem xét, thẩm định và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định, thì không vì những lý do như có tài sản phát sinh trên đất tranh chấp, giao dịch về tài sản trước đó bị vô hiệu để xác định hợp đồng thế chấp vô hiệu, mà phải xem xét theo hướng công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp, những vấn đề phát sinh có thể xem xét trong quá trình thi hành án.
- Vụ án có dấu hiệu hình sự nhưng vẫn giải quyết theo tố tụng dân sự: Trong không ít vụ án tranh chấp HĐTD có dấu hiệu hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175), vi phạm quy định trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 206). Chẳng hạn, ông A đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B, nhưng sau đó lại sử dụng tài sản này thế chấp vay ngân hàng; hoặc trường hợp giám đốc chi nhánh ngân hàng cấp tín dụng quá thẩm quyền gây thiệt hại nghiêm trọng. Những trường hợp này, có Tòa án vẫn giữ lại để xử lý theo thủ tục tố tụng dân sự là “dân sự hóa hình sự”, dẫn đến bản án, quyết định bị hủy, sửa. Vì vậy, trong vụ án về tín dụng có dấu hiệu hình sự như giả mạo giấy tờ, thế chấp, cầm cố nhiều nơi, cho vay không đúng quy trình, thẩm quyền…, việc xử lý bằng thủ tục tố tụng dân sự không bảo đảm, không đúng bản chất và áp dụng không đúng pháp luật, nên cần yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo đúng quy định.
Ngoài vi phạm nêu trên, còn có một số vi phạm của các chủ thể khác, như việc Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối tượng; tổ chức công chứng thực hiện công chứng hợp đồng không đúng đã tạo “kẽ hở” cho một số tổ chức, cá nhân vay tiền, sau đó mới phát hiện tài sản không bảo đảm về pháp lý ảnh hưởng đến TCTD, đương sự khác…
2.4. Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan:
Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro do việc thu hồi vốn vay và lãi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thiên tai, hoả hoạn, nhất là gần đây đại dịch Covid-19 kéo dài gần 03 năm khiến nhiều doanh nghiệp bị tê liệt, ngừng hoạt động trong thời gian dài. Bên cạnh đó, pháp luật về việc cho vay cũng chưa đồng bộ, thống nhất trong quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; chế độpháp lý đối với tài sản bảo đảm còn chưa chặt chẽ, thiếu những quy định về tài sản bảo đảm; quy định về người thứ ba ngay tình, việc xử lý tài sản bảo đảm của người thứ ba thế chấp, cầm cố vẫn còn nhiều cách giải quyết khác nhau.
Ngoài ra, quy định của pháp luật về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp nói chung và kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp HĐTD nói riêng còn bất cập, Viện kiểm sát còn gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ để thực hiện quyền yêu cầu, quyền kháng nghị, kiến nghị.
- Nguyên nhân chủ quan:
Từ phía khách hàng: Nguyên nhân dẫn đến vi phạm, phát sinh tranh chấp HĐTD chủ yếu do bên vay (khách hàng) vi phạm nghĩa vụ thanh toán, đa số vụ án xảy ra, lúc đầu khách hàng trả gốc và lãi theo phân kỳ đúng hạn, nhưng sau đó cố tình chây ì, chiếm dụng vốn, vi phạm nghĩa vụ thanh toán, thậm chí có trường hợp ngay sau khi được giải ngân, khách hàng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn, nợ xấu và khởi kiện ra Tòa án.
Về phía người có tài sản bảo đảm: Người có tài sản bảo đảm có thể chính là người vay, hoặc là người thứ ba bảo đảm cho người vay, thường không nhận thức đầy đủ về hậu quả pháp lý của việc thế chấp, nên cố giữ tài sản của mình, nhất là tài sản bảo đảm của người thứ ba, nhiều trường hợp họ có thái độ bất hợp tác, ngăn cản, chống đối quyết liiệt. Thậm chí có nhiều thủ đoạn chống đối như xây dựng thêm nhà cửa, công trình khác gắn liền với đất, đưa thêm người khác quản lý, sử dụng tài sản trên diện tích đất tranh chấp để đối phó với TCTD, cố tình vắng mặt hoặc không ký biên bản bàn giao tài sản cho cơ quan chức năng, kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm.
Từ phía TCTD: Không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng, tính hiệu quả của phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc không quan tâm doanh nghiệp sử dụng vốn vay để làm gì, có đúng mục đích như trong phương án sản xuất, kinh doanh không, tâm lý chủ quan đã có tài sản bảo đảm cho khoản vay; cho vay lãi suất cao trong thời gian dài, không có các giải pháp linh hoạt giãn nợ, gia hạn thời hạn trả nợ đối với khách hàng, một số TCTD còn chạy theo thành tích cho vay, hoặc áp lực cạnh tranh giữa các TCTD nên bỏ qua nhiều trình tự, thủ tục, điều kiện để được giải ngân. Một số nhân viên tín dụng thẩm định hồ sơ không chặt chẽ, không thẩm định trên thực tế tài sản bảo đảm, thậm chí có trường hợp nâng giá trị tài sản bảo đảm để cho vay số tiền lớn hơn. Mặt khác, việc cho vay có tài sản bảo đảm của TCTD còn phụ thuộc nhiều vào tài sản thế chấp, đặc biệt là nhà, đất; trong khi đó, những tài sản này bản thân nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro dẫn đến không xử lý được (như đã phân tích ở phần vi phạm phổ biến), mà chưa quan tâm đến biện pháp bảo đảm khác (như cầm cố, bảo lãnh) và đến những loại tài sản khác như động sản (hàng hóa lưu thông, vàng bạc, đá quý), cổ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm…
Từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng: Vẫn còn không ít vụ án được giải quyết chưa đúng, thiếu sót, quá trình kiểm sát cũng chưa kịp thời phát hiện để khắc phục nên bản án, quyết định đã bị Tòa án cấp trên hủy, sửa, do không xem xét, đánh giá toàn diện vụ án, không đánh giá đúng, đầy đủ về bản chất của vụ án, bản chất của tài sản bảo đảm, không xem xét chặt chẽ về tình trạng tài sản bảo đảm; còn có nhiều quan điểm giải quyết khác nhau, nhất là vấn đề lãi, lãi suất, phạt vi phạm, việc xác định người thứ ba ngay tình, nhận thức pháp luật còn hạn chế…
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và khuyến nghị với tổ chức tín dụng
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
- Đối với BLTTDS năm 2015:
Cần sửa đổi các quy định của BLTTDS năm 2015 để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát tham gia sâu hơn vào một số hoạt động giải quyết của Tòa án trong tố tụng dân sự nói chung, trong đó có hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa án, như bổ sung quy định về sự tham gia của Kiểm sát viên đối với hoạt động xem xét thẩm định tại chỗ (Điều 101), định giá tài sản, thẩm định giá tài sản (Điều 104)...
Sửa đổi khoản 1 Điều 232, khoản 1 Điều 296, khoản 1 Điều 367 BLTTDS năm 2015 theo hướng bỏ quy định Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Thay vào đó, bổ sung quy định “nếu Kiểm sát viên vắng mặt lần thứ nhất thì hoãn phiên tòa, phiên họp”.
Ngoài ra, cần quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tại khoản 6 Điều 97 BLTTDS năm 2015 và những quy định có liên quan về thu thập tài liệu, chứng cứ như trưng cầu giám định, trưng cầu định giá tài sản…
Việc bổ sung những quy định này để bảo đảm hoạt động kiểm sát được chặt chẽ, phát hiện kịp thời vi phạm, thiếu sót của Tòa án trong quá trình giải quyết và nắm chắc hồ sơ vụ việc ngay từ đầu, xem xét toàn diện vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, chính xác. Trong đó có vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp HĐTD.
- Đối với Luật đất đai năm 2013:
Sửa khoản 1 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 theo hướng bổ sung quyền cầm cố quyền sử dụng đất như sau: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, cầm cố, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này” để phù hợp với quy định tại Điều 310 BLDS năm 2015: “Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Việc quy định biện pháp cầm cố bất động sản là biện pháp bảo đảm tiền vay sẽ quản lý tài sản bảo đảm chặt chẽ hơn, an toàn hơn, hạn chế rủi ro cho TCTD.
Bên cạnh đó, tác giả kiến nghị bổ sung những quy định mới trong Luật đất đai nhằm hạn chế việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo hướng quy định rõ một số trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình (chỉ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình đối với đất nông nghiệp và ở những vùng nông thôn, miền núi, hải đảo); hơn nữa, hiện nay đã bỏ sổ hộ khẩu giấy nên công tác quản lý các thành viên hộ gia đình cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng. Trường hợp cấp mới hoặc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình theo Luật đất đai trước đây thì ghi đầy đủ, công khai các thành viên trong hộ gia đình có quyền về tài sản để tránh trường hợp thiếu ý kiến của thành viên khi sử dụng, định đoạt tài sản. Còn lại hầu hết các trường hợp chỉ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân cụ thể để bảo đảm tính công khai, minh bạch về pháp lý đối với tài sản, thuận lợi cho việc thế chấp, cầm cố và xử lý tài sản bảo đảm.
- Đối với Luật các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Bổ sung 01 chương riêng về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu (trên cơ sở kế thừa cơ bản những quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD).
Khoản 2 Điều 91 Luật các TCTD về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của TCTD quy định: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, cần bổ sung quy định về trần lãi suất cho vay của TCTD để tránh trường hợp cho vay quá cao và bảo đảm tính bình đẳng với trần lãi suất cho vay thông thường theo Điều 468 BLDS năm 2015, đó là: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay…”.
Ngoài ra, cũng cần quy định cụ thể về các loại lãi suất: Lãi trong hạn, lãi quá hạn trong Luật này (đang có nhiều quan điểm về việc công nhận lãi chồng lãi, phạt chồng phạt), đồng thời, cần bổ sung quy định về biện pháp bảo đảm tiền vay, bởi đây là biện pháp rất quan trọng để bảo đảm tiền vay, bảo đảm hoạt động an toàn của hệ thống tín dụng, an ninh kinh tế.
Bên cạnh đó, liên ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số cơ quan liên quan cần phối hợp xây dựng thông tư liên ngành hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục rút gọn sao cho hiệu quả, khái niệm về người thứ ba ngay tình (hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau về người thứ ba và việc xác định người thứ ba ngay tình), vấn đề lãi chồng lãi, phạt chồng phạt, đưa những nội dung hướng dẫn nghiệp vụ có liên quan đến giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng.
3.2. Một số khuyến nghị đối với tổ chức tín dụng
Một là, TCTD hạn chế sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba, trường hợp sử dụng biện pháp đối với loại tài sản này thì cần thực hiện quy trình xem xét thẩm định, định giá chặt chẽ, đầy đủ tài sản bảo đảm và giải thích cặn kẽ, rõ ràng cho người thứ ba về hậu quả của việc thế chấp tài sản khi người vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán và yêu cầu họ ký cam kết tự nguyện bàn giao tài sản trong trường hợp phải xử lý tài sản.
Hai là, Ngân hàng nhà nước cần ban hành quy trình thẩm định tài sản khi cho vay một cách chặt chẽ, đầy đủ để áp dụng thống nhất trong hệ thống TCTD, đặc biệt đối với bất động sản; theo đó, khi thẩm định cũng như khi định giá tài sản, nhất thiết phải quay phim, chụp hình tài sản thế chấp. Đối với việc định giá tài sản thì nhất thiết phải trưng cầu tổ chức thẩm định giá độc lập để bảo đảm tính khách quan và chính xác. Trong quá trình cho vay, cần thường xuyên theo dõi tình trạng tài sản bảo đảm để kịp thời phát hiện những thay đổi, biến động về tài sản như xây dựng, cơi nới thêm nhà, công trình trên đất, cho người khác thuê…
Ba là, TCTD phải quản lý chặt việc sử dụng vốn vay cho đúng mục đích so với phương án vay vốn, quản lý chặt chẽ tài sản thế chấp; tăng cường kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng vốn vay và tài sản thế chấp để bảo đảm khả năng trả nợ và bảo toàn tài sản và giá trị của nó, tránh việc sử dụng tài sản thế chấp cho người khác thuê, sử dụng mà không được sự đồng ý của TCTD.
Bốn là, TCTD cần đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm khi cho vay mà không quá phụ thuộc vào biện pháp thế chấp tài sản là các bất động sản, như mở rộng phạm vi cho vay có sử dụng biện pháp cầm cố tài sản.
Năm là, cần nhận thức đúng quy định về người thứ ba ngay tình. Thực tiễn hiện nay cho thấy, TCTD phải chứng minh mình thực sự ngay tình, không biết về tình trạng thiếu tính pháp lý của tài sản. Trong một số trường hợp, Tòa án vẫn không chấp nhận TCTD là người thứ ba ngay tình, như trường hợp hướng dẫn tại Mục 1 Phần III (về dân sự) tại Văn bản số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vướng mắc trong xét xử.
Sáu là, gần đây xuất hiện tranh chấp giữa người thế chấp tài sản với TCTD trong trường hợp hợp đồng thế chấp của người thứ ba bảo đảm cho nhiều HĐTD, trong đó có HĐTD ký cùng thời điểm với hợp đồng thế chấp, hoặc HĐTD ký kết sau. Đối với những HĐTD ký sau hợp đồng thế chấp thì người có tài sản thường tranh chấp về phạm vi thế chấp, họ cho rằng chỉ thế chấp bảo đảm cho từng nghĩa vụ theo từng hợp đồng cụ thể, còn TCTD đa số cho rằng bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Thực tế, nhiều trường hợp hợp đồng thế chấp bị tuyên bố vô hiệu, có vụ vẫn công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp. Trong trường hợp hợp đồng thế chấp bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ thì hợp đồng thế chấp phải giải thích rõ đối với khách hàng và quy định rõ trong hợp đồng thế chấp để tránh những tranh chấp kéo dài.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường phối hợp với Tòa án, Viện kiểm sát trong việc tổ chức các hội thảo, hội nghị, ký quy chế phối hợp trong việc cung cấp thông tin, phối hợp giải quyết những vấn đề còn có nhiều cách hiểu, áp dụng khác nhau liên quan đến HĐTD; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan Thi hành án… trong việc cung cấp thông tin, quản lý chặt chẽ về tình trạng pháp lý đối với tài sản bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm.
VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị giám đốc thẩm vụ án “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
VKSND cấp cao tại Hà Nội kháng nghị giám đốc thẩm vụ án “Tranh chấp bồi thường bảo hiểm tàu cá”
-
1Vướng mắc về đánh giá chứng cứ khi giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
-
2Hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
-
3Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
4Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
Bài viết chưa có bình luận nào.