Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

03/05/2023 17:00

(kiemsat.vn)
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hiện nay có một số khó khăn, vướng mắc. Tác giả xin được nêu một số vướng mắc thường gặp và đề xuất giải pháp tháo gỡ.

Biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng được quy định tại Chương VII “Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Các biện pháp này góp phần ngăn chặn tội phạm và ngăn ngừa những hành vi gây khó khăn, cản trở đối với quá trình giải quyết vụ án.

Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: (1) Điều 110: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; (2) Điều 111: Bắt người phạm tội quả tang; (3) Điều 112: Bắt người đang bị truy nã; (4) Điều 113: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (5) Điều 117: Tạm giữ; (6) Điều 119: Tạm giam; (7) Điều 121: Bảo lĩnh; (8) Điều 122: Đặt tiền để bảo đảm; (9) Điều 123: Cấm đi khỏi nơi cư trú; (10) Điều 124: Tạm hoãn xuất cảnh.

Biện pháp ngăn chặn được áp dụng khi có một trong bốn căn cứ sau: (1) Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; (2) Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; (3) Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội và (4) Để bảo đảm thi hành án.

Qua thực tiễn khi áp dụng một số biện pháp ngăn chặn theo quy định pháp luật hiện hành, tác giả thấy có một số khó khăn vướng mắc và đề xuất như sau:

1. Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn

Thứ nhất, chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về cách tính thời hạn tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Hiện nay, đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thời gian bắt, giữ được ghi trong biên bản giữ người, lệnh giữ người, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyết định tạm giữ hầu hết là không cùng thời gian.

Ví dụ: Trong vụ án đánh bạc xảy ra ngày 10/5/2020 tại phường PB, thị xã HT, tỉnh TTH cho thấy, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp được Cơ quan điều tra lập vào lúc 22 giờ 20 phút ngày 10/5/2020, đến 01 giờ 00 ngày 11/5/2020 ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ và biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp lúc 11 giờ 00’ ngày 11/5/202.

Như vậy, tính từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến khi ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là không quá 12 giờ, đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến khi ra quyết định tạm giữ là gần 3 giờ và từ khi ra quyết định tạm giữ đến khi ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là 09 giờ. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian tạm giam, nhưng thời gian bị giữ khi chưa có quyết định tạm giữ thì như thế nào? Nếu không được tính vào thời hạn tạm giữ để được trừ vào thời hạn tạm giam thì ảnh hưởng đến quyền của người bị tạm giữ. Đây là vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật; bởi lẽ, thời điểm giữ người trong trường hợp khẩn cấp phát sinh trước khi có quyết định tạm giữ.

Thứ hai, trường hợp hủy bỏ biện pháp tạm giữ đối với đối tượng nhưng chưa đủ căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì áp dụng biện pháp ngăn chặn gì để đảm bảo đối tượng không bỏ trốn để điều tra xử lý theo quy định của pháp luật?

Thứ ba, việc xác định “có dấu hiệu bỏ trốn, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể về các dấu hiệu này.

Điều này làm cho những người tiến hành tố tụng lúng túng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam vì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam không đúng sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị can, bị cáo quy định tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự: … khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp “c) … có dấu hiệu bỏ trốn” và “d) … có dấu hiệu tiếp tục phạm tội…”.

Trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp nghiên cứu, giải quyết vụ án dựa vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Nhưng trong thực tiễn, việc áp dụng các căn cứ này để tạm giam bị can, bị cáo còn nhiều khó khăn vì trong nhiều trường hợp không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam do không có căn cứ xác định người phạm tội thuộc các trường hợp mà Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

Thứ tư, đối với thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 trong giai đoạn xét xử.

Tại khoản 2 Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277”. So sánh với các quy định tại Điều 277 Bộ luật này thì quy định này chưa phù hợp, vì tại khoản 1 Điều 277 quy định thời hạn từ ngày thụ lý đến ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; khoản 3 quy định thời hạn từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến ngày mở phiên tòa. Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 278 thì thời gian từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến ngày mở phiên tòa không được áp dụng biện pháp tạm giam.

Thứ năm, trong trường hợp, vụ án có nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội phạm nhưng theo các khoản khác nhau, khung hình phạt khác nhau thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được thực hiện như thế nào?

Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện cho thống nhất. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, tại điểm đ tiểu mục 2.2 mục 2 cụ thể như sau: Trường hợp trong vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng), thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy tố.

Như vậy, trên tinh thần của Nghị quyết hướng dẫn thì áp dụng biện pháp tạm giam đối với từng bị can theo tội phạm nặng nhất mà từng bị can đó bị truy tố. Nhưng trong thực tiễn thì có nơi lại áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp trên là căn cứ vào tội nặng nhất trong vụ án để ra quyết định tạm giam đối với các bị cáo bị tạm giam là không phù hợp.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, tác giả cho rằng, cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về cách áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong vụ án có nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội phạm nhưng theo các khoản khác nhau, khung hình phạt khác nhau.

Thứ hai, theo tác giả, cần áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với đối tượng bị hủy bỏ biện pháp tạm giữ.

Thứ ba, nhằm áp dụng hiệu quả hơn trong thực tiễn, cần có văn bản hướng dẫn về các quy định tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự; hướng dẫn về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi các dấu hiệu này cần sự đánh giá, phân tích một cách khách quan, toàn diện trên cơ sở nhân thân, điều kiện kinh tế, tình trạng sức khỏe của người phạm tội… bởi các dấu hiệu bỏ trốn hay tiếp tục phạm tội nằm trong ý thức chủ quan của người phạm tội.

Thứ tư, cần sửa khoản 2 Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 277 của Bộ luật này.”

Thứ năm, tác giả cho rằng, cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về cách áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong vụ án có nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội phạm nhưng theo các khoản khác nhau, khung hình phạt khác nhau.

Trao đổi về kiểm sát thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn xét xử

(Kiemsat.vn) - Trong một số trường hợp, việc tính thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú còn chưa có sự thống nhất trong giai đoạn xét xử sơ thẩm như: thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với từng bị can trong vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội khác nhau; thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú  dựa trên căn cứ gì nếu phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án... Những nội dung trên sẽ được tác giả Đồng Thị Lan Anh (VKSND TP. HẢi Phòng) trao đổi cụ thể trong bài viết này.

Trao đổi về các biện pháp ngăn chặn theo BLTTHS năm 2015

(Kiemsat.vn) - Biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng trong luật tố tụng hình sự. Áp dụng các quy định về BPNC một cách đúng đắn, chính xác là sự bảo đảm cần thiết cho việc ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với kẻ phạm tội, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang