Kỳ I: Tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới

17/03/2025 09:55

(kiemsat.vn)
Bài viết phân tích, luận giải làm rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của VKSND trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo quy định; từ đó, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Bài viết phân tích, luận giải làm rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của Hiến pháp, pháp luật hiện hành; đồng thời, trên cơ sở Văn kiện Đại hội XIII và các nghị quyết, kết luận của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là các nội dung, yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW; từ đó, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

1. Khái quát chung về vị trí, vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.1. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một thiết chế hiến định trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng: “Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp... có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Điều này được thể hiện rõ qua vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; theo đó, với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND là thiết chế kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với Cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án… trong việc thực hiện hoạt động tư pháp; đồng thời, VKSND cũng chịu sự kiểm soát trở lại của Cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án và các cơ quan khác trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Pháp luật cũng quy định rõ các cơ chế giám sát hoạt động của VKSND thông qua các thiết chế dân chủ đại diện (như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân), thông qua cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Về mối quan hệ giữa Viện trưởng VKSND cấp trên với Viện trưởng VKSND cấp dưới, VKSND do Viện trưởng lãnh đạo; Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao; khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND. Theo nguyên tắc này, VKSND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm của VKSND cấp dưới, đảm bảo sự thống nhất về tổ chức bộ máy, cũng như hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong toàn hệ thống VKSND. Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ phải chấp hành quyết định của Viện trưởng. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Đây là nguyên tắc đề cao vai trò, tính chịu trách nhiệm của Viện trưởng và tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên trong thực thi nhiệm vụ, bảo đảm để Kiểm sát viên tuân thủ sự phân công, chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.

Như vậy, có thể khẳng định VKSND là một thiết chế hiến định, một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện trưởng VKSND, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

1.2. Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.2.1. Vai trò, trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ Hiến pháp và pháp luật

Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, VKSND, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”; khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 tiếp tục khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật… Như vậy, VKSND là thiết chế hiến định có vai trò, trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; thể hiện cụ thể như sau:

Một là, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND đảm bảo theo đúng giới hạn về thẩm quyền và trách nhiệm được Hiến pháp và pháp luật quy định.

Một trong những nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSND là: Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND. Quy định này xuất phát từ yêu cầu, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa được quy định trong Hiến pháp: Mọi hoạt động của cá nhân, công dân, cơ quan, tổ chức phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Bên cạnh đó, một trong những tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên là trung thành với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ kiên quyết bảo vệ Hiến pháp. Luật tổ chức VKSND năm 2014 cũng đã xác định nguyên tắc: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và các hành vi, quyết định khác thuộc thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.

Theo Luật tổ chức VKSND năm 2014, xây dựng pháp luật là một công tác của VKSND tối cao; “VKSND tối cao có quyền đề nghị, trình dự án luật, pháp lệnh; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong xây dựng pháp luật; ban hành văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền theo quy định của luật về ban hành văn bản pháp luật”. Theo đó, VKSND tối cao là chủ thể có trách nhiệm trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền hoặc tham gia ý kiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể khác trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và có quyền đề nghị, kiến nghị Quốc hội xem xét bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; đề nghị, kiến nghị với Chính phủ xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật.

Đối với các văn bản thuộc trách nhiệm soạn thảo, ban hành, VKSND tối cao bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật này không trái với Hiến pháp, pháp luật và phải tuân theo quy trình thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020; có trách nhiệm tự kiểm tra lại các văn bản do mình ban hành nhằm bảo đảm các văn bản đó phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật; khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm, trái pháp luật thì kịp thời sửa đổi, bãi bỏ, thay thế một phần hoặc toàn bộ văn bản có nội dung vi phạm.

Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có trách nhiệm: (1) Xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi tiêu cực trong xây dựng pháp luật đến mức phải xử lý hình sự; (2) Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nếu phát hiện những văn bản quy phạm pháp luật có bất cập, trái với Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Ba là, thông qua thẩm quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 63 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp. Tuy nhiên, tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao VKSND tối cao soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích. Bên cạnh đó, VKSND tối cao còn có trách nhiệm đàm phán, ký kết, gia nhập các hiệp định tương trợ tư pháp và các thỏa thuận quốc tế khác theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.

1.2.2. Vai trò, trách nhiệm của VKSND trong kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bộ máy nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất và yêu cầu khách quan của kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cần có sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và việc thực hiện quyền lực tư pháp nói riêng.

Hoạt động tư pháp là hoạt động do các cơ quan tư pháp thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Các hoạt động tư pháp rất rộng, thuộc nhiều lĩnh vực (hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, thi hành án), do nhiều cơ quan tiến hành và đặc biệt là liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và sự tồn tại của pháp nhân thương mại. Vì vậy, muốn đạt hiệu quả trong hoạt động tư pháp, các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội, cá nhân và pháp nhân được bảo đảm một cách tốt nhất, thì cần có một cơ chế giám sát, kiểm soát từ bên ngoài các cơ quan tư pháp. Mặc dù trong thực tiễn tồn tại và phát triển, cũng như các cơ quan nhà nước khác, trong nội bộ Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, cơ quan Thi hành án đều có bộ phận thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nhưng sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ đó khó bảo đảm tính khách quan, do vẫn chịu sự chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan. Vì vậy, cần có cơ quan chuyên trách giám sát từ bên ngoài và ngay cả bộ phận thực hiện công việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng là đối tượng của hoạt động kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài. Trong đó, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp. Theo đó, vai trò của VKSND trong kiểm soát quyền lực tư pháp được thể hiện ở những hoạt động sau:

Một là, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để bảo đảm việc áp dụng, chấp hành và tuân thủ pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất trong hoạt động tư pháp; kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật, tội phạm trong hoạt động tư pháp, nhất là của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan... trong hoạt động tố tụng, trên cơ sở thực hiện các quyền kiến nghị, yêu cầu chấm dứt, yêu cầu khắc phục, yêu cầu thay đổi, yêu cầu xử lý, kháng nghị... để khắc phục vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.

Hai là, hoạt động điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương góp phần bảo đảm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp cũng như việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đạt hiệu lực và hiệu quả; đồng thời, hoạt động điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, VKSND, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp, vừa góp phần bảo đảm hoạt động tư pháp trong sạch, nghiêm minh và tuân thủ pháp luật, vừa có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh và phòng ngừa chung trong toàn hệ thống các cơ quan tư pháp, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với hệ thống các cơ quan tư pháp.

Ba là, Viện kiểm sát có trách nhiệm phối hợp, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên hoạt động của cơ quan có thẩm quyền điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án và các cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp, nhằm bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp trong việc chấp hành, áp dụng và tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp.

Như vậy, thông qua các hoạt động trên, VKSND thực hiện việc kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, nhằm bảo đảm các hoạt động này đúng quy định của pháp luật; bảo đảm quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của những người có liên quan được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

1.2.3. Vai trò, trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Với chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND là một thiết chế có vai trò quan trọng góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, vai trò của VKSND còn được thể hiện trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Điều này được quy định rõ tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”; Điều 20 Hiến pháp năm 2013: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”, theo đó:

Một là, với chức năng thực hành quyền công tố, VKSND có trách nhiệm bảo đảm các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuân thủ đúng quy định của pháp luật; quyết định việc truy tố bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để bất cứ ai bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; bảo đảm không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp luật.

Chức năng thực hành quyền công tố được thực hiện thông qua việc xét phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các lệnh, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh, hoạt động điều tra trong các trường hợp luật định. Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát trực tiếp buộc tội bị cáo trước Tòa, kháng nghị các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm… Đồng thời, VKSND phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình khi áp dụng các biện pháp tố tụng. Qua đó, VKSND bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân.

Hai là, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiến hành hoặc tham gia tố tụng giải quyết các vụ án, vụ việc bảo đảm hoạt động tố tụng tuân thủ các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời; các quyền, lợi ích của người bị kết án không bị pháp luật tước bỏ phải được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Qua đó, VKSND đã thể hiện vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

1.2.4. Vai trò, trách nhiệm của VKSND trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

Viện kiểm sát nhân dân có vai trò là một trong những chủ thể quan trọng, nòng cốt, cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND đấu tranh phòng, chống tội phạm thông qua các phương diện chủ yếu sau: (1) Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án hình sự; (2) Điều tra một số tội phạm theo quy định của pháp luật; (3) Qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VKSND chủ động phối hợp với các cơ quan để tham mưu cho các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; (4) Kiến nghị với cấp có thẩm quyền đề ra các biện pháp khắc phục thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, phòng ngừa tội phạm.

Theo chức năng, nhiệm vụ, VKSND tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khâu tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án, lợi thế này giúp VKSND trở thành một trong những nhân tố chính trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bởi VKSND có điều kiện nắm bắt được tất cả thông tin về tình hình tội phạm đã xảy ra. Do đó, VKSND có khả năng phân tích, đánh giá sát thực tế nhất về tội phạm, từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời. Nói cách khác, VKSND có ưu thế hơn bất cứ cơ quan nào khác trong việc nắm bắt nhanh chóng, chính xác thông tin về tình hình tội phạm đang diễn ra ở từng địa phương, trong từng mối quan hệ xã hội, góp phần phát hiện tội phạm, tìm hiểu, thống kê, nghiên cứu nguyên nhân phát sinh nguồn gốc tội phạm; qua đó, đề xuất kế hoạch cụ thể phòng ngừa tội phạm “từ sớm, từ xa”, tránh những hậu quả lớn hơn do tội phạm gây ra, đấu tranh chống tội phạm kịp thời, nghiêm minh.

Bên cạnh đó, hoạt động phòng, chống tội phạm của VKSND có tính đặc thù, bởi VKSND vừa thực hiện công tác đấu tranh chống tội phạm thông qua chức năng của mình, vừa thực hiện nhiệm vụ “giám sát”, phát hiện vi phạm và yêu cầu khắc phục vi phạm đối với chính các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Với từng hoạt động cụ thể khi thực hiện chức năng chống tội phạm, VKSND phải có trách nhiệm kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Đối với những vi phạm pháp luật mang tính nghiêm trọng, VKSND kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố và làm rõ hành vi phạm tội, người phạm tội, kiến nghị các biện pháp phòng ngừa những vi phạm pháp luật có nguy cơ trở thành tội phạm. Việc ngăn chặn tội phạm từ khi chưa có hậu quả trên thực tế là thành công của hoạt động phòng, chống tội phạm. Vai trò của VKSND trong hoạt động này xuất phát từ vị trí và chức năng mà không cơ quan nào khác có được.

Viện kiểm sát nhân dân phòng, chống tội phạm thông qua việc thực hiện các khâu công tác nghiệp vụ cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ luật định. Cụ thể, VKSND góp phần quan trọng phát hiện, phân loại, xử lý kịp thời các tin báo, tố giác về tội phạm, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết để xác minh, điều tra theo quy định của pháp luật. Mặt khác, căn cứ vào kết quả công tác thống kê tội phạm, VKSND tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về xây dựng chính sách pháp luật, cơ chế thực hiện, hoạch định chiến lược phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Hơn nữa, qua quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND phát hiện những nguyên nhân của tội phạm để kiến nghị các cơ quan hữu quan có biện pháp khắc phục, nhằm ngăn ngừa tội phạm xảy ra, đây cũng là nhiệm vụ bắt buộc của VKSND.

Đặc biệt, trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ việc, vụ án, VKSND giám sát các hoạt động này nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa vi phạm của những người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. Đây là hoạt động chỉ duy nhất có ở VKSND với tính chất là nhiệm vụ chuyên môn trực tiếp, góp phần ngăn ngừa những hành vi tiêu cực hoặc sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, người có chức danh tư pháp là đối tượng kiểm sát. Đồng thời, do trực tiếp kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có thể kịp thời phát hiện những khiếm khuyết trong hoạt động thực hiện công vụ hoặc những dấu hiệu cố ý vi phạm của các cán bộ, công chức đang thực thi công vụ, từ đó đưa ra yêu cầu khắc phục những sơ hở, yếu kém hoặc đình chỉ các hành vi vi phạm pháp luật. Thông qua hoạt động kiểm sát, VKSND còn bảo đảm sự tuân thủ đúng đắn các quy định của pháp luật trong hoạt động của những người có thẩm quyền điều tra, xét xử và thi hành án. Nhờ đó, việc xử lý người phạm tội đáp ứng được những mục đích của pháp luật - thông qua việc xử lý nghiêm để giáo dục, cảm hóa người phạm tội và giáo dục, phòng ngừa chung đối với toàn xã hội.

1.2.5. Vai trò, trách nhiệm của VKSND trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và yêu cầu của Đảng, Nhà nước, vai trò của VKSND trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thể hiện như sau: (1) Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các đơn vị được giao nhiệm vụ chuyên trách về chống tham nhũng, trong đó có 03 đơn vị chịu trách nhiệm chính trong công tác này là Vụ 5, Vụ 6 và Cục 1; (2) Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với tội phạm tham nhũng; điều tra tội phạm tham nhũng trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, VKSND, Tòa án nhân dân, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp; (3) Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân và phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng; (4) Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng; kiến nghị chính sách, pháp luật, giải pháp phòng, chống tham nhũng; (5) Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế thu hồi tài sản tham nhũng trong tố tụng hình sự; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng và đề nghị nước ngoài thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam.

(Còn tiếp)

Nguyễn Xuân Hưởng

Định tội theo dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ

(Kiemsat.vn) - Việc xử lý tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trong thời gian qua vẫn gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định xuất phát từ việc định tội danh. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể, bài viết làm rõ những dấu hiệu pháp lý đặc trưng để quá trình định tội danh chính xác, khách quan, đúng quy định của pháp luật.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang