Một số lưu ý khi thực hiện kiểm sát việc thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án

07/03/2025 14:38

(kiemsat.vn)
Việc tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng trong công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là trong việc thu hồi tài sản cho Nhà nước, cũng như đảm bảo quyền được thi hành án cho các chủ thể khác. Bài viết nêu một số vấn đề cần lưu ý nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án.

Kiểm sát về căn cứ, trình tự, thủ tục lựa chọn tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án

Thứ nhất, kiểm sát về căn cứ lựa chọn tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án:

Về việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản kê biên: Theo quy định tại khoản 1 Điều 98 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 và 2022 (gọi tắt là Luật THADS) quyền thỏa thuận của đương sự về giá và việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá được ưu tiên thực hiện. Theo đó, ngay sau khi kê biên, Chấp hành viên phải ghi nhận nội dung về sự thỏa thuận của đương sự (có hay không thỏa thuận); tài liệu ghi nhận sự thỏa thuận của đương sự là cơ sở để xác định việc Chấp hành viên ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá do đương sự thỏa thuận lựa chọn, hay Chấp hành viên phải thực hiện các trình tự, thủ tục lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được về giá và lựa chọn tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên thực hiện thủ tục lựa chọn tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản để ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá theo khoản 2 Điều 98 Luật THADS. Trường hợp Chấp hành viên không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá theo khoản 2 Điều 98 Luật THADS thì xác định giá theo điểm a khoản 3 Điều 98 Luật THADS. Trường hợp tài sản được Chấp hành viên thực hiện xác định giá phải có ý kiến của cơ quan chuyên môn tương ứng đối với loại tài sản cần định giá.

Đối với việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản kê biên: Theo khoản 2 Điều 101 Luật THADS, Chấp hành viên phải bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án và ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án với tổ chức bán đấu giá do các đương sự thỏa thuận. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được tổ chức bán đấu giá đối với tài sản thi hành án có giá trị từ trên 10 triệu đồng và bất động sản, thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án.

Thứ hai, kiểm sát việc thực hiện trình tự, thủ tục lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá tài sản thi hành án:

Đối với việc thẩm định giá tài sản kê biên: Hiện nay, pháp luật chưa có quy định về quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản nói chung. Việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản kê biên được thực hiện theo Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án ban hành kèm theo Quyết định số 1079/QĐ-TCTHADS ngày 25/12/2020 của Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp (viết tắt là Quy trình số 1079).

Đối với việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản kê biên: Thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật đấu giá tài sản năm 2016 (viết tắt là Luật ĐGTS); Điều 4, khoản 1 Điều 8 Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 của Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản; Điều 2, Điều 9 Quy trình số 1079.

Theo đó, thông báo lựa chọn tổ chức thẩm định giá và thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản phải được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục THADS nơi có tài sản và Cổng thông tin điện tử Tổng cục THADS. Tài liệu thể hiện việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá và lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản kê biên phải được Chấp hành viên lưu trong hồ sơ THADS.

Kiểm sát việc thẩm định giá, định giá lại tài sản kê biên

Thứ nhất, kiểm sát việc thẩm định giá tài sản kê biên:

 Kết quả thẩm định giá tài sản kê biên được sử dụng làm giá khởi điểm để đưa tài sản kê biên ra bán đấu giá. Do đó, khi ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá đối với tài sản kê biên, Chấp hành viên phải cung cấp đầy đủ các tài liệu về tính pháp lý của tài sản như: Quyết định cưỡng chế kê biên, biên bản kê biên, sơ đồ hiện trạng tài sản kê biên (trích đo thửa đất nếu tài sản là quyền sử dụng đất, bản vẽ, các tài liệu liên quan …); giấy tờ pháp lý của tài sản kê biên (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản...). Trên cơ sở tài liệu được cung cấp, tổ chức thẩm định giá phải xem xét, khảo sát thực trạng tài sản kê biên, tiếp nhận đầy đủ thông tin làm cơ sở cho việc thẩm định giá (cập nhật các văn bản để làm căn cứ cho việc thẩm định như Luật giá, quyết định của cơ quan có thẩm quyền về khung giá…). Khi thẩm định giá phải đánh giá, mô tả, phân tích, so sánh với 03 tài sản có tính tương đồng với tài sản kê biên theo Mục II Thông tư số 126/2015/TT-BTC ngày 20/8/2015 của Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 08, 09 và 10.

Sau khi có kết quả thẩm định giá tài sản kê biên, Chấp hành viên phải thông báo cho các bên đương sự về kết quả thẩm định giá và quyền yêu cầu định giá lại trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo, hết thời hạn này mà đương sự không có yêu cầu định giá lại thì kết quả thẩm định giá ghi trong chứng thư được chấp nhận và sử dụng để đưa tài sản kê biên ra bán đấu giá. Chấp hành viên phải sử dụng kết quả thẩm định giá trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá; thời điểm có hiệu lực của chứng thư thẩm định giá được tính từ thời điểm Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản kê biên.

Ngoài những trường hợp thẩm định giá lại theo Điều 99 Luật THADS, nếu chứng thư thẩm định giá không được sử dụng trong thời hạn hoặc đã được sử dụng nhưng trình tự, thủ tục bán đấu giá không liên tục dẫn đến chứng thư quá thời hạn, thì thực hiện lại thủ tục thẩm định giá.

Thứ hai, kiểm sát việc định giá lại đối với tài sản kê biên:

Việc định giá lại tài sản kê biên chỉ được thực hiện trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 99 Luật THADS, trình tự và nội dung kiểm sát việc định giá lại tương tự trình tự kiểm sát việc định giá lần đầu. Tuy nhiên, khi kiểm sát việc định giá lại tài sản kê biên, Kiểm sát viên cần chú ý căn cứ định giá lại, đơn yêu cầu định giá lại, việc nộp tiền tạm ứng chi phí định giá lại. Trường hợp định giá lại do Chấp hành viên vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản, thì cần xem xét về căn cứ, thủ tục định giá, đánh giá nguyên nhân dẫn tới kết quả định giá không đúng để xác định trách nhiệm của Chấp hành viên. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, cần xem xét đơn yêu cầu định giá lại và đương sự phải nộp đủ tạm ứng chi phí định giá lại tài sản kê biên trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá tài sản; yêu cầu định giá lại tài sản kê kiên phải là lần đầu.

Kiểm sát việc bán đấu giá tài sản kê biên

Khi kiểm sát việc bán đấu giá tài sản kê biên, Kiểm sát viên cần nghiên cứu, thực hiện theo Quy định về quy trình, kỹ năng kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án ban hành kèm theo Quyết định số 308/QĐ-VKSTC ngày 29/8/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Theo đó, khi kiểm sát việc bán đấu giá tài sản kê biên, Kiểm sát viên cần lưu ý một số nội dung sau:

- Kiểm sát hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản kê biên:

Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản kê biên là cơ sở để tổ chức đấu giá thực hiện các thủ tục về đấu giá (ban hành quy chế cuộc đấu giá, thông báo, niêm yết việc đấu giá, bán và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá, thu tiền đặt trước...), các nội dung của hợp đồng là căn cứ để xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa người có tài sản đưa ra đấu giá (Chấp hành viên) với tổ chức đấu giá tài sản. Thực tiễn kiểm sát đã phát hiện nhiều vụ việc bán đấu giá tài sản kê biên, tổ chức đấu giá có các hành vi vi phạm khoản 6 Điều 33 Luật ĐGTS, phải yêu cầu Chấp hành viên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 47 Luật ĐGTS để hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, dẫn đến phải hủy kết quả đấu giá theo khoản 3 Điều 72 Luật ĐGTS.

- Kiểm sát quy chế cuộc đấu giá tài sản kê biên:

Trong thực tế, nội dung quy chế cuộc đấu giá tài sản kê biên thường có những vi phạm như: Tổ chức đấu giá giấu thông tin về tài sản đấu giá, nêu không đầy đủ, không chính xác thông tin về tài sản đấu giá nhằm hạn chế người tham gia đấu giá; quy định không đúng pháp luật về thời gian, địa điểm bán hồ sơ, tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá; không đặt điều kiện hoặc đặt thêm điều kiện đối với người tham gia đấu giá không phù hợp với tài sản đấu giá, cách thức đăng ký tham gia đấu giá; quy định không đúng pháp luật về tiền đặt trước và xử lý tiền đặt trước; quy định về hình thức đấu giá, phương thức đấu giá... không phù hợp với các Điều 8, 36, 38, 39, 40 Luật ĐGTS, dẫn đến vi phạm khoản 6 Điều 33 Luật ĐGTS, là căn cứ để yêu cầu Chấp hành viên thực hiện quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 47 Luật ĐGTS, hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá và hủy kết quả đấu giá theo khoản 3 Điều 72 Luật ĐGTS.

Khi kiểm sát việc bán đấu giá tài sản kê biên theo hình thức đấu giá trực tuyến, Kiểm sát viên còn phải xem xét việc tổ chức bán đấu giá đăng tải quy chế cuộc đấu giá tài sản kê biên trên Trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ĐGTS (Nghị định số 62/2017), được sửa đổi, bổ sung năm 2023; kiểm sát việc thực hiện quy định về điều kiện tổ chức đấu giá bằng hình thức đấu giá trực tuyến và yêu cầu đối với Trang thông tin điện tử đấu giá trực tuyến theo Điều 9 và Điều 13 Nghị định số 62/2017.

- Kiểm sát việc niêm yết đấu giá tài sản kê biên:

Theo điểm c khoản 6 Điều 33 Luật ĐGTS, trường hợp tổ chức đấu giá không thực hiện niêm yết việc đấu giá tài sản kê biên là một trong những căn cứ hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Ngoài ra, những vi phạm khác về niêm yết cũng là vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát như: Địa điểm, thời gian niêm yết việc đấu giá tài sản kê biên tùy theo loại tài sản là bất động sản hay động sản theo Điều 35 và Điều 53 Luật ĐGTS; trường hợp bán đấu giá tài sản kê biên theo thủ tục rút gọn thì niêm yết trước ngày mở cuộc đấu giá là 03 ngày làm việc đối với động sản, 05 ngày làm việc đối với bất động sản; việc lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết hoặc việc lập văn bản có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản về việc niêm yết theo khoản 3 Điều 35 Luật ĐGTS.

- Kiểm sát việc thông báo công khai việc đấu giá tài sản kê biên:

Khi thực hiện kiểm sát, Kiểm sát viên cần chú ý xem xét các tài liệu chứng minh việc đăng thông báo như: Đối chiếu nội dung thông báo với nội dung quy chế cuộc đấu giá (nhất là điều kiện, thủ tục, thời gian, thời hạn đăng ký tham gia đấu giá); hợp đồng đăng báo in hoặc báo hình; xem xét hóa đơn thu tiền dịch vụ thông báo; nếu là thông báo trên báo in thì cần xem xét 02 số báo in được lưu trong hồ sơ có đăng tin thông báo về đấu giá tài sản kê biên hay không. Trường hợp tổ chức bán đấu giá thực hiện thông báo việc đấu giá tài sản kê biên trên các tờ thông báo, bản tin không phải là báo in, báo hình do cơ quan quản lý báo chí có thẩm quyền cấp phép hoạt động được xác định là vi phạm khoản 1 Điều 57 Luật ĐGTS. Đối với hình thức đấu giá trực tuyến, phải xem xét việc tổ chức đấu giá có thực hiện việc đăng tải thông báo công khai việc đấu giá tài sản kê biên kèm theo danh mục tài sản, hình ảnh, tài liệu liên quan đến tài sản (nếu có) trên Trang thông tin đấu giá trực tuyến theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 62/2017 hay không.

Trường hợp đã bán đấu giá lần thứ hai trở đi nhưng vẫn không thành, hoặc bán đấu giá theo thủ tục rút gọn theo khoản 2 Điều 53 Luật ĐGTS, thì việc thông báo đấu giá tài sản kê biên được thực hiện 01 lần trên báo in hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá.

- Kiểm sát việc bán hồ sơ tham gia đấu giá và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá tài sản kê biên:

Tổ chức đấu giá tài sản thực hiện không đúng khoản 2 Điều 38 Luật ĐGTS về việc bán và tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá được xác định là vi phạm nghiêm trọng điểm c khoản 6 Điều 33 Luật ĐGTS, Viện kiểm sát cần ban hành kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu Chấp hành viên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 47 Luật ĐGTS để hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá và hủy kết quả đấu giá tài sản kê biên theo khoản 3 Điều 72 Luật ĐGTS.

- Kiểm sát việc thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá tài sản kê biên:

Thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá tài sản là một trong những điều kiện quyết định người đủ điều kiện tham gia đấu giá. Tổ chức đấu giá không thông báo công khai hoặc thực hiện việc thu tiền đặt trước không đúng pháp luật, không đúng thời hạn được ghi trong quy chế cuộc đấu giá và thông báo đấu giá là vi phạm nghiêm trọng điểm c khoản 6 Điều 33 Luật ĐGTS về việc “cố tình cho người không đủ điều kiện tham gia đấu giá và trúng đấu giá”, Viện kiểm sát cần ban hành kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu Chấp hành viên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 47 Luật ĐGTS để hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá và hủy kết quả đấu giá tài sản kê biên theo khoản 3 Điều 72 Luật ĐGTS.

- Kiểm sát việc dừng tổ chức cuộc đấu giá tài sản kê biên:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc dừng đấu giá tài sản kê biên được thực hiện theo các điểm c, d khoản 1 Điều 47 Luật ĐGTS. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 145 Luật THADS, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền “tạm dừng việc thực hiện quyết định, hành vi bị khiếu nại”; theo khoản 1 Điều 158 Luật THADS, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm “áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra”. Do vậy, Thủ trưởng cơ quan THADS (người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS), trong quá trình thụ lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm quyền có thể tạm dừng hoặc dừng việc đấu giá tài sản kê biên.

- Kiểm sát việc đấu giá tài sản kê biên trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá:

Trường hợp này chỉ được thực hiện khi đã tổ chức cuộc đấu giá lần đầu nhưng không thành theo Điều 49 Luật ĐGTS, khi kiểm sát cần lưu ý các vấn đề sau:

(i) Khi đã hết thời hạn đăng ký tham gia đấu giá mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc đấu giá, hoặc có nhiều người tham gia cuộc đấu giá nhưng chỉ có một người trả giá, hoặc có nhiều người trả giá nhưng chỉ có một người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm, thì tài sản được bán cho người đó nếu người có tài sản đấu giá (Chấp hành viên) đồng ý bằng văn bản.

(ii) Việc đấu giá tài sản trong những trường hợp này chỉ được tiến hành sau khi đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục đấu giá tài sản theo quy định của Luật ĐGTS và không có khiếu nại liên quan đến trình tự, thủ tục cho đến ngày tổ chức cuộc đấu giá tài sản kê biên.

(iii) Biên bản đấu giá tài sản kê biên phải thể hiện đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 44 Luật ĐGTS và thể hiện rõ quá trình đấu giá tài sản kê biên chỉ có một người tham gia đấu giá hoặc chỉ có một người trả giá, chấp nhận giá hợp lệ; ý kiến đồng ý của người có tài sản đấu giá (Chấp hành viên).

- Kiểm sát việc xử lý tài sản kê biên không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành:

Việc xử lý tài sản kê biên không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành được thực hiện theo Điều 104 Luật THADS. Khi kiểm sát, cần xem xét việc Chấp hành viên có thực hiện việc thông báo để đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản theo khoản 1 Điều 104 Luật THADS hay không. Trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào nghĩa vụ thi hành án, đối với tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì cần xem xét việc Chấp hành viên ra quyết định giao tài sản cho người được thi hành án để làm thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản; trường hợp người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không tự nguyện giao tài sản cho người được thi hành án, thì xem xét việc Chấp hành viên tổ chức thực hiện việc cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo khoản 2 Điều 104 Luật THADS.

Trường hợp giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, thì xem xét việc Chấp hành viên thực hiện giao lại tài sản cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng, yêu cầu người phải thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án theo khoản 3 Điều 104 Luật THADS.

Ngoài ra, với đặc thù đấu giá tài sản kê biên, “người có tài sản đấu giá” là Chấp hành viên, nên khi kiểm sát các hoạt động bán đấu giá tài sản kê biên, cần lưu ý xem xét việc Chấp hành viên thông báo và cho người phải thi hành án nhận lại tài sản theo khoản 5 Điều 101 Luật THADS (trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án đã nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá). Đối với tài sản kê biên thuộc sở hữu chung, cần chú ý xem xét việc Chấp hành viên thực hiện các trình tự, thủ tục về bán đấu giá tài sản kê biên thuộc sở hữu chung theo khoản 3 Điều 74 Luật THADS và khoản 1 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS - Nghị định số 62/2015 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 33/2020).

- Kiểm sát việc ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá:

Sau phiên đấu giá tài sản kê biên, Chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá với người trúng đấu giá theo Điều 46 Luật ĐGTS. Khi kiểm sát, cần xem xét các nội dung của hợp đồng về thời hạn nộp tiền và phương thức nộp tiền mua tài sản đấu giá, về việc người mua được tài sản đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản đấu giá. Quy định về thời hạn nộp tiền và phương thức nộp tiền mua tài sản đấu giá trong hợp đồng mua bán tài sản đấu giá phải phù hợp với khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020). Theo đó, người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền mua tài sản bán đấu giá vào tài khoản của cơ quan THADS trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm.

Kiểm sát việc thanh toán tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản kê biên

Việc thanh toán tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản kê biên được thực hiện theo Điều 47 Luật THADS, Điều 49 Nghị định số 62/2015 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020) và Thông tư liên tịch số 11/2016. Khi kiểm sát, cần xem xét phương án chi trả tiền thi hành án do Chấp hành viên lập, lưu ý việc ưu tiên thanh toán cho những người được thi hành án đã yêu cầu theo các bản án, quyết định đang do cơ quan THADS đó tổ chức thi hành tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế, hoặc có biên bản về việc tự nguyện giao tài sản theo điểm b khoản 2 Điều 47 Luật THADS; kiểm sát việc Chấp hành viên xử lý số tiền chưa thanh toán cho người được thi hành án nhưng chưa có yêu cầu thi hành án, trong trường hợp hết thời hạn thông báo mà không nhận được yêu cầu thi hành án, hoặc trường hợp đã hết thời hạn thông báo mà người được nhận tiền không đến nhận tiền.

Nguyễn Đức Hải - Nguyễn Công Dương

Quy định của một số nước về nguồn của luật hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam

(Kiemsat.vn) - Mở rộng nguồn của pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng cho phép các luật khác, đặc biệt là các luật chuyên ngành quy định tội phạm và hình phạt là vấn đề cần được quan tâm. Việc xây dựng quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản luật chuyên ngành không những không mâu thuẫn với việc quy định tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự, mà nó là nguồn bổ sung cần thiết cho Bộ luật Hình sự để đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang