Quy định của một số nước về nguồn của luật hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam

05/03/2025 08:48

(kiemsat.vn)
Mở rộng nguồn của pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng cho phép các luật khác, đặc biệt là các luật chuyên ngành quy định tội phạm và hình phạt là vấn đề cần được quan tâm. Việc xây dựng quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản luật chuyên ngành không những không mâu thuẫn với việc quy định tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự, mà nó là nguồn bổ sung cần thiết cho Bộ luật Hình sự để đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

Trong lịch sử hình thành và phát triển pháp luật, nguồn của pháp luật có thể là tiền lệ pháp (án lệ), tập quán pháp (phong tục tập quán), văn bản quy phạm pháp luật (luật, bộ luật,...).

Nguồn của luật hình sự là căn cứ trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt và những vấn đề khác có liên quan đến việc xác định tội phạm và hình phạt.

Hiện nay, có những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn, “nguồn của luật hình sự là những căn cứ có giá trị áp dụng trực tiếp đối với tất cả các phạm vi của việc thiết kế và thực hiện chính sách hình sự, cho việc lập pháp hình sự, cho việc áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan và cá nhân khác nhau trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, cho việc xây dựng và củng cố ý thức pháp luật ….”. Hoặc: “Nguồn của luật hình sự là văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành, chứa đựng các quy phạm pháp luật hình sự, quy định về tội phạm và hình phạt cũng như các chế định khác có liên quan đến việc xác định tội phạm và hình phạt”.

Như vậy, có thể hiểu, nguồn của luật hình sự là các văn bản pháp luật hình sự trực tiếp có quy định về tội phạm và hình phạt.

Nguồn của luật hình sự Việt Nam qua các thời kì

Từ năm 1945 đến trước năm 1985:

Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, chính quyền cách mạng đang trong thời kỳ sơ khai chưa đủ thời gian và điều kiện xây dựng hệ thống pháp luật mới. Vì vậy, ở các tỉnh phía Bắc, Nhà nước ta chủ trương cho phép áp dụng pháp luật của chế độ cũ mà không trái với nguyên tắc độc lập dân tộc của nước Việt Nam. Từ năm 1945 đến trước năm 1985, nước ta chỉ có các văn bản dưới luật như pháp lệnh, sắc lệnh. Các văn bản này được coi là nguồn của ngành luật hình sự và được dùng để giải quyết các vụ án hình sự. Chẳng hạn, Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng (năm 1967), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân (năm 1970), Pháp lệnh trừng trị Tội hối lộ (năm 1981), Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (năm 1982); Sắc lệnh số 03 ngày 15/3/1976 quy định về trừng trị các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế, các tội chức vụ, hối lộ và các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng.

Nguồn quy định tội phạm và hình phạt trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực đến nay:

Năm 1985, Bộ luật Hình sự (BLHS) đầu tiên của nhà nước ta được ban hành. Đây là sự pháp điển hóa toàn bộ các văn bản pháp luật hình sự từ sau Cách mạng tháng 8/1945 cho đến năm 1985. Trong giai đoạn này, quan điểm nguồn của luật hình sự chỉ duy nhất từ BLHS. Điều này thể hiện trong Điều 2 BLHS năm 1985: “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hình phạt phải do Tòa án quyết định”; và tại Điều 2 BLHS năm 1999 một cách cụ thể hơn như sau: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Nội dung này cũng được quy định tại Điều 2 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015): “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Và quan điểm xác định nguồn của luật hình sự còn thể hiện qua việc định nghĩa về tội phạm ở Điều 8 BLHS năm 1985, năm 1999 cũng như Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự…..”. Như vậy, có thể thấy, BLHS là nguồn duy nhất quy định tội phạm và hình phạt.

Kinh nghiệm một số nước về nguồn của luật hình sự và khuyến nghị cho Việt Nam

Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới cho thấy, quy định về tội phạm và hình phạt không chỉ trong BLHS mà còn ở luật chuyên ngành hay Bộ luật chuyên ngành khác. Tuy nhiên, mỗi nước có hình thức quy định khác nhau và thể hiện trong các loại văn bản khác nhau.

Trong số 103 đạo luật của Canada, có đến 100 đạo luật có quy định tội phạm và hình phạt (chiếm trên 95%). Chỉ có 03 đạo luật không quy định tội phạm và hình phạt (chiếm gần 05%) là: Đạo luật về người chưa thành niên phạm tội năm 1991 và Đạo luật về Bộ Đối ngoại và Ngoại thương năm 1985, Đạo luật về Ủy ban đầu tư và bồi thường trong lĩnh vực công năm 1999.

Hầu hết các văn bản pháp luật chuyên ngành của Canada đều có quy định về tội phạm và hình phạt. Những quy định này liên quan trực tiếp đến các hành vi bị cấm trong văn bản pháp luật tương ứng. Vì vậy, những quy định này không tồn tại riêng biệt mà được đặt trong tổng thể các quy định liên quan đến một nhóm vấn đề nhất định mà văn bản pháp luật đó điều chỉnh.

Nguồn của luật hình sự Thái Lan cũng khá đa dạng. Tội phạm và hình phạt trong luật hình sự Thái Lan được quy định không chỉ trong BLHS B.E 2499, mà còn trong nhiều văn bản luật chuyên ngành (thường là ở chương cuối của văn bản). Ví dụ, theo Luật bản quyền của Thái Lan B.E. 2537 (tại Chương VIII từ Điều 69 đến Điều 72), người có hành vi sao chép, mua bán, cho thuê bản gốc tác phẩm, phát sóng, giải quyết các công việc liên quan đến vấn đề bản quyền… một cách trái pháp luật đều bị xử lý bằng biện pháp hình phạt. Cụ thể: Điều 69 Luật này quy định:

“Bất kỳ người nào có các hành vi vi phạm bản quyền theo quy định tại Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30 hay Điều 52 Luật này, phải chịu phạt tiền từ 20.000 Baht đến 200.000 Baht.

Nếu các vi phạm trên với mục đích thương mại, thì những người phạm tội phải bị tù từ 06 tháng đến 04 năm, hoặc phạt tiền từ 100.000 baht đến 800.000 baht, hoặc cả hai”. Hay tại Chương VII Luật về rừng của Thái Lan B.E 2484 cũng quy định tội phạm và hình phạt đối với người có hành vi chặt phá trái phép cây rừng, khai thác trái phép lâm sản, buôn lậu gỗ, che giấu cho người phạm tội. Ví dụ, theo Điều 69: “Người nào sở hữu gỗ nguyên cây, hoặc đã xẻ mà không có dấu búa của Chính phủ, trừ khi sở hữu hợp pháp của người đó được chứng minh, thì phải chịu phạt tù trong một thời hạn không quá 05 năm, hoặc phạt không quá 50.000 Baht, hoặc cả hai.

Đối với hành vi phạm tội trên nhưng nếu thực hiện với các loại gỗ sau: “(1) Teak, Yang hoặc gỗ loại B; hoặc (2) Gỗ khác ở dạng nguyên thân cây hoặc đã xẻ, hoặc cả hai loại đó với số lượng nhiều hơn 20 thân cây hoặc trên 04m3, thì phải chịu phạt tù từ 01 năm đến 20 năm và phạt tiền từ 5.000 Baht đến 200.000 Baht”.

Một ví dụ khác là Cộng hòa Pháp, ngoài những tội phạm trong BLHS thì các đạo luật khác của Pháp cũng quy định tội phạm và hình phạt. Ví dụ, Bộ luật về môi trường Pháp năm 2000 (sửa đổi gần nhất năm 2023) quy định: “Phạt tù đến 06 tháng và phạt tiền đến 75.000 Euro đối với người có hành vi không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, được quy định tại Điều 163-14 Bộ luật này”; hoặc “Phạt tù đến 02 năm và phạt tiền đến 75.000 Euro đối với người có hành vi xả chất thải nguy hại cho môi trường” (Điều L216-7). Ngoài ra, các Bộ luật về hải quan và một số bộ luật khác của Pháp cũng quy định tội phạm và hình phạt. Đặc biệt, Cộng hòa Liên bang Đức còn quy định tội phạm và hình phạt trong một luật riêng cùng tồn tại với BLHS hiện hành.

Ở Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế - xã hội đã thay đổi nhanh chóng và sâu sắc cũng như tình hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp với thủ đoạn, phương thức thực hiện ngày càng tinh vi, khó lường và gia tăng tính chất, mức độ nguy hiểm; pháp luật hình sự cũng phải thay đổi, tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nguồn của luật hình sự chỉ bó hẹp trong BLHS (vốn mang tính ổn định) sẽ khó đáp ứng được yêu cầu pháp luật hình sự phải “phản ứng nhanh chóng, kịp thời với các thay đổi của các yếu tố kinh tế, xã hội khách quan - yếu tố quyết định sự điều chỉnh của luật hình sự”.

Do đó, việc mở rộng nguồn của luật hình sự ở các văn bản luật ngoài BLHS có thể khắc phục được bất cập nêu trên; ít phức tạp hơn so với quy trình ban hành, sửa đổi, bổ sung BLHS do chỉ điều chỉnh trong lĩnh vực nhất định của văn bản luật chuyên ngành.

Bên cạnh đó, với tính khái quát của các quy định về tội phạm nên việc áp dụng BLHS thường phải kèm theo các văn bản giải thích, nhất là đối với các lĩnh vực chuyên ngành sâu về kinh tế, môi trường, tội phạm công nghệ cao,... Thực tế cho thấy, đến nay, sau hơn 06 năm BLHS năm 2015 có hiệu lực, việc xây dựng các thông tư hướng dẫn của một số bộ, ngành vẫn còn chậm; nhiều khái niệm nội dung không được giải thích một cách đầy đủ, cụ thể và có hệ thống, nhất là các thuật ngữ chuyên sâu của một lĩnh vực nhất định, dẫn đến vướng mắc trong áp dụng pháp luật. Chúng tôi cho rằng, việc quy định tội phạm và hình phạt trong các văn bản luật chuyên ngành có những ưu điểm nhất định. Bởi, trong cùng một văn bản, có quy định các hành vi vi phạm hành chính và hành vi tội phạm để người áp dụng có cơ sở phân biệt ranh giới giữa trường hợp là tội phạm với trường hợp không phải là tội phạm. Hơn nữa, quy định tội phạm trong văn bản pháp luật chuyên ngành còn tránh được sự trùng lặp về cách mô tả các dấu hiệu của tội phạm.

Phan Thị Thu Lê

Quy định phối hợp giữa các cơ quan tố tụng khi không tổ chức Công an cấp huyện

(Kiemsat.vn) - Ngày 27/2/2025, Bộ Công an - VKSND tối cao - TAND tối cao ký Thông tư liên tịch số 02/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự khi không tổ chức Công an cấp huyện.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang