Một số kỹ năng kiểm sát thi hành án hành chính
(kiemsat.vn) Kiểm sát thi hành án hành chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án hành chính nói chung và đối với hoạt động thi hành án hành chính nói riêng. Bài viết đưa ra một số kỹ năng đối với Kiểm sát viên khi kiểm sát thi hành án hành chính nhằm góp phần nâng cao hiệu quả khâu công tác này của Viện kiểm sát trong thời gian tới.
Vướng mắc trong hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản
Quy định về xử lý vật chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ việc, vụ án hình sự
Quy định phối hợp giữa các cơ quan tố tụng khi không tổ chức Công an cấp huyện
Về kiểm sát việc cấp, chuyển giao bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Toà án
Thứ nhất, khi kiểm sát việc cấp, chuyển giao quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Kiểm sát viên cần làm rõ các chủ thể được cấp, chuyển giao quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; thời điểm Tòa án ra quyết định và đương sự, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) cùng cấp nhận được quyết định đó. Trên cơ sở đó, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 để xác định vi phạm của Toà án về việc cấp, chuyển giao và thời hạn cấp, chuyển giao đối với quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ hai, khi kiểm sát việc Tòa án cấp, gửi bản án về vụ án hành chính, Kiểm sát viên cần xác định cụ thể đối tượng được Toà án cấp, gửi bản án và thời hạn cấp, gửi bản án theo quy định tại khoản 3 Điều 196 Luật TTHC năm 2015. Theo đó, đối tượng được cấp, gửi bản án bao gồm: Đương sự, VKSND cùng cấp, cơ quan THADS cùng cấp, cơ quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện trong vụ án hành chính. Đồng thời, Kiểm sát viên cũng cần làm rõ thời điểm kết thúc quyền kháng cáo của đương sự, quyền kháng nghị của VKSND để xác định thời điểm bản án hành chính sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, so sánh với ngày nhận được bản án để kết luận vi phạm của Toà án trong việc cấp, gửi bản án hành chính sơ thẩm.
Thứ ba, khi kiểm sát việc cấp, gửi bản án, quyết định hành chính phúc thẩm để đảm bảo việc thi hành án hành chính (THAHC), Kiểm sát viên cần nắm rõ ngày Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm và ngày Toà án thực hiện việc cấp, gửi bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm cho các chủ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Luật TTHC năm 2015, từ đó đối chiếu với quy định của pháp luật để kết luận vi phạm của Tòa án về thời hạn cấp, gửi bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm.
Thứ tư, đối với việc gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính. Theo Điều 279 và Điều 286 Luật TTHC năm 2015, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, Tòa án phải kịp thời gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính để đảm bảo việc THAHC trên thực tế, đặc biệt đối với trường hợp việc thi hành các bản án, quyết định đó đang bị tạm đình chỉ khi có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về kiểm sát việc theo dõi thi hành án hành chính
- Về việc thụ lý, theo dõi thi hành án hành chính của cơ quan Thi hành án dân sự: Khi kiểm sát việc cơ quan THADS tiếp nhận bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Toà án, Kiểm sát viên xác định ngày nhận bản án, quyết định của Tòa án để xác định trách nhiệm của cơ quan THADS đối với việc phân loại bản án, quyết định có nội dung theo dõi; nếu bản án, quyết định thuộc trường hợp cơ quan THADS theo dõi việc thi hành án thì cơ quan THADS phải phân công Chấp hành viên theo dõi THAHC. Nếu nhận qua đường bưu điện, ngoài việc vào sổ thụ lý, cơ quan THADS còn phải lưu bì thư có dấu bưu điện và ký phiếu giao nhận bưu kiện và lưu vào hồ sơ; Kiểm sát viên căn cứ ngày vào sổ để xác định vi phạm quy định về thời hạn của cơ quan THADS trong việc phân công Chấp hành viên theo dõi THAHC.
- Về việc phân công Chấp hành viên theo dõi việc thi hành án hành chính: Căn cứ khoản 2 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định thời hạn, trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án (gọi tắt là Nghị định số 71/2016), sau khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, cơ quan THADS phải phân công Chấp hành viên theo dõi THAHC. Nếu sau khi nhận bản án, quyết định hành chính mà cơ quan THADS không phân công Chấp hành viên theo dõi là có vi phạm.
- Về việc ra thông báo về việc tự nguyện THAHC: Theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 71/2016, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, cơ quan THADS có trách nhiệm ra văn bản thông báo về việc tự nguyện THAHC gửi người phải THAHC. Nội dung thông báo phải nêu rõ thời hạn tự nguyện, trách nhiệm tổ chức THAHC, việc xử lý trách nhiệm nếu không chấp hành án. Do đó, nếu sau 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS không ra thông báo là có vi phạm. Đối với trường hợp nhận được bản án, quyết định của Toà án buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo điểm e khoản 1 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo điểm g khoản 1 Điều 311 Luật TTHC năm 2015, cơ quan THADS phải ra ngay thông báo về việc tự nguyện THAHC. Qua hoạt động kiểm sát, nếu phát hiện cơ quan THADS không ra văn bản thông báo về việc tự nguyện THAHC đúng thời hạn, thì VKSND phải thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu cơ quan THADS ra văn bản thông báo theo quy định của pháp luật.
- Về việc theo dõi THAHC của Chấp hành viên đối với người phải thi hành án: Theo khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016 trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc THAHC của Toà án, Chấp hành viên được phân công theo dõi việc THAHC phải làm việc với người phải THAHC để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Toà án. Nội dung làm việc phải được lập thành biên bản. Do đó, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát biên bản làm việc của Chấp hành viên với người phải THAHC. Khi phát hiện hết thời hạn theo luật định mà Chấp hành viên được phân công theo dõi việc THAHC không làm việc với người phải THAHC thì Kiểm sát viên căn cứ quy định tại Điều 315 Luật TTHC năm 2015 để tham mưu cho lãnh đạo VKSND ban hành kiến nghị với cơ quan THADS yêu cầu Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ theo quy định.
- Về việc cơ quan THADS ban hành kiến nghị về việc chậm thi hành án, không thi hành án hoặc thi hành án không đầy đủ: Căn cứ khoản 5 Điều 14 Nghị định số 71/2016, Kiểm sát viên kiểm sát việc cơ quan THADS có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án, nhất là kiến nghị đối với người phải thi hành án là Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Trường hợp người phải thi hành án có hành vi cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính trong thời hạn tự nguyện thi hành án dẫn đến việc chậm thi hành án, Kiểm sát viên kiểm sát việc cơ quan THADS có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án do có hành vi cố ý chậm thi hành án.
Nếu phát hiện cơ quan THADS không ban hành văn bản kiến nghị trong các trường hợp nêu trên thì VKSND thực hiện quyền kiến nghị cơ quan THADS ra văn bản kiến nghị; VKSND có thể thực hiện việc kiến nghị trực tiếp với người phải thi hành án hoặc kiến nghị trực tiếp với cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án theo quy định của pháp luật.
- Về việc yêu cầu Tòa án giải thích bản án, quyết định: Căn cứ khoản 6 Điều 14 Nghị định số 71/2016, kiểm sát việc Thủ trưởng cơ quan THADS thực hiện quyền yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản về những điểm chưa rõ, đính chính sai sót trong bản án, quyết định theo quy định tại Điều 197 Luật TTHC năm 2015.
Khi kiểm sát nội dung này, Kiểm sát viên cần làm rõ phạm vi, nội dung, thẩm quyền giải thích bản án, quyết định; yêu cầu, căn cứ khi giải thích bản án, quyết định và thời hạn giải thích bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính khi có yêu cầu nhằm đảm bảo việc giải thích bản án, quyết định được thực hiện đúng luật định, đảm bảo hiệu quả thi hành án trên thực tế.
- Về việc lập hồ sơ theo dõi thi hành án hành chính: Căn cứ khoản 7 Điều 14 Nghị định số 71/2016, Viện kiểm sát kiểm sát việc Chấp hành viên được phân công thực hiện việc lập hồ sơ theo dõi THAHC. Theo đó, Kiểm sát viên kiểm sát việc Chấp hành viên lập hồ sơ có thể hiện toàn bộ quá trình theo dõi, kiểm tra, đôn đốc THAHC và được lưu trữ theo quy định của pháp luật.
- Về việc đăng tải công khai quyết định buộc thi hành án hành chính: Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc đăng tải thông tin về THAHC. Theo khoản 1 Điều 30 Nghị định số 71/2016, cơ quan THADS phải gửi hoặc đăng tải công khai quyết định buộc THAHC trên trang thông tin điện tử của Cục THADS, tích hợp trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp và Cổng thông tin điện tử của Chính phủ trong trường hợp người phải THAHC là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; chấm dứt công khai thông tin trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo kết quả THAHC xong theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Nghị định số 71/2016.
- Về việc phân loại bản án, quyết định không có nội dung theo dõi THAHC: Sau khi nhận được báo cáo của cơ quan THADS về số bản án, quyết định không có nội dung phải theo dõi, Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ việc phân loại, hạn chế đến mức thấp nhất số bản án, quyết định hành chính thuộc diện phải theo dõi THAHC nhưng cơ quan THADS xếp vào số bản án, quyết định không có nội dung phải theo dõi. Nếu qua kiểm sát phát hiện việc phân loại bản án, quyết định không đúng quy định, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo VKSND cấp mình ban hành kiến nghị, yêu cầu cơ quan THADS phân công Chấp hành viên theo dõi việc THAHC.
Về kiểm sát việc ra quyết định buộc thi hành án hành chính của Tòa án
Khoản 1 Điều 312 Luật TTHC năm 2015 quy định trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện THAHC mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn kèm theo bản sao bản án, quyết định của Tòa án, tài liệu khác có liên quan đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Khi kiểm sát việc ra quyết định buộc THAHC, Kiểm sát viên cần kiểm sát các nội dung như thời hiệu yêu cầu thi hành án, thời hạn ra quyết định buộc THAHC… nhằm đảm bảo việc ra quyết định buộc THAHC của Tòa án được kịp thời, có căn cứ pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 312 Luật TTHC năm 2015 và Điều 11 Nghị định số 71/2016, người có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc THAHC là người được thi hành án; thời điểm bắt đầu được thực hiện quyền yêu cầu là hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải THAHC không tự nguyện thi hành. Người được thi hành án có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc THAHC bằng hình thức trực tiếp nộp đơn, trình bày bằng lời nói, gửi đơn theo dịch vụ bưu chính hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thời hạn Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ra quyết định buộc THAHC là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của người được thi hành án. Để kiểm sát việc Tòa án có thẩm quyền ra quyết định buộc THAHC có đúng thời hạn luật định hay không, Kiểm sát viên cần xác định ngày Tòa án nhận được đơn yêu cầu của người được thi hành án, đối chiếu với ngày Tòa án ban hành quyết định buộc THAHC để kết luận vi phạm.
Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính của người phải thi hành án
- Về việc ra văn bản thông báo tình hình, kết quả thi hành án: Theo khoản 2 Điều 10 Nghị định số 71/2016, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án, cơ quan phải THAHC phải thông báo bằng văn bản tình hình, kết quả thi hành án cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, VKSND và cơ quan THADS cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó, đồng thời báo cáo cơ quan cấp trên trực tiếp. Nếu người phải THAHC không thực hiện việc thông báo theo quy định này, VKSND cùng cấp xem xét kiến nghị và gửi kiến nghị đến cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC để đôn đốc thực hiện.
- Về việc thi hành quyết định buộc thi hành án của Tòa án: Theo các khoản 1, 2 Điều 12 Nghị định số 71/2016, khi nhận được quyết định buộc THAHC, người phải THAHC có trách nhiệm thi hành ngay bản án, quyết định của Tòa án. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phải THAHC có trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp về việc không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Căn cứ quy định này, nếu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phải THAHC không tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc thi hành không đúng, không đầy đủ thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo VKSND ban hành kiến nghị với Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC để kịp thời chỉ đạo việc THAHC.
- Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân là người phải THAHC: Căn cứ Điều 7 Nghị định số 71/2016 quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân là người phải THAHC và theo khoản 2 Điều 13 Nghị định này, trường hợp phải THAHC đã nhận được văn bản chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp mà vẫn không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp có văn bản chỉ đạo về việc xem xét xử lý trách nhiệm hoặc đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xem xét xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người phải THAHC. Văn bản chỉ đạo xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu của người phải THAHC được gửi cho Tòa án đã ra quyết định buộc THAHC, VKSND và cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
- Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC: Căn cứ Điều 8 và khoản 1 Điều 13 Nghị định số 71/2016, Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC về việc kiểm tra, đôn đốc chỉ đạo và xem xét xử lý trách nhiệm đối với người phải THAHC, người đứng đầu của người phải THAHC trong trường hợp chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung, bản án, quyết định của Tòa án. Nếu người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC trong trường hợp đã nhận được các văn bản có liên quan đến việc THAHC nhưng không thực hiện việc kiểm tra, đôn đốc chỉ đạo, xem xét xử lý trách nhiệm đối với người phải THAHC, người đứng đầu của người phải THAHC thì báo cáo lãnh đạo VKSND xem xét thực hiện quyền kiến nghị, để đảm bảo thi hành bản án, quyết định đúng thời hạn quy định và bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người được THAHC.
Về việc ban hành thông báo kết quả thi hành án sau khi có quyết định buộc thi hành án của Tòa án: Căn cứ khoản 3 Điều 12 Nghị định số 71/2016, Kiểm sát viên kiểm sát việc cơ quan phải THAHC thực hiện quy định về việc thông báo kết quả THAHC cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, VKSND và cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm, báo cáo cơ quan cấp trên trực tiếp trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định được thi hành xong.
Trần Huy - Hoàng Anh Phương - Bùi Minh Học
Bài viết chưa có bình luận nào.