Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền - Ý nghĩa trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
(kiemsat.vn) Với tính chất của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, xuất phát từ thực tế của một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những quan điểm toàn diện, sâu sắc của Người chính là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, đặt nền tảng tư tưởng, lý luận cho đường lối “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của Đảng ta hiện nay.
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp quy luật tiến hóa của lịch sử
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ quát, là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, gian khổ của quần chúng nhân dân trong quá trình phá bỏ mô hình nhà nước độc tài, chuyên chế để xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới, mà ở đó “ý chí của người dân được nâng lên thành luật”. Trên thực tế, Nguyễn Ái Quốc luôn coi trọng lý tưởng độc lập, tự do, bình đẳng, bác ái. Mở đầu “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Tìm đường cứu nước trong giai đoạn cách mạng thế giới có nhiều biến động, dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đi sâu tìm hiểu mô hình Nhà nước Xô Viết. V.I.Lênin từng ca ngợi: “Chúng ta có quyền tự hào và thực thế, chúng ta tự hào là chúng ta có vinh hạnh được bắt đầu xây dựng Nhà nước Xô Viết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới”. Nguyễn Ái Quốc bị cuốn hút bởi những lý tưởng tốt đẹp “biến người nô lệ thành người tự do”, với những chính sách nhân văn, cao thượng vì con người, cho con người của Nhà nước Xô Viết. Chính lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cho Người hoàn toàn “cảm động, sáng tỏ và tin tưởng”. Nhờ đó, Người đi đến kết luận cuối cùng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Như vậy, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền đã giúp Nguyễn Ái Quốc chiêm nghiệm hai bức tranh, với hai tính chất đối lập: Nhà nước pháp quyền tư sản và Nhà nước Xô Viết. Điều hiển nhiên, Người đặt trọn niềm tin vào mô hình Nhà nước Xô Viết. Tuy nhiên, hành trình vận dụng mô hình Nhà nước Xô Viết (thực chất là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa) về Việt Nam không đơn giản. Bởi vì, nhà nước đó ra đời trên cơ sở thực tiễn một nước tư bản ở châu Âu, “nhưng châu Âu là gì? Châu Âu không phải là toàn nhân loại”. Người chỉ rõ: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác”. Do đó, theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng trên mảnh đất hiện thực Việt Nam, trên cơ sở những tư liệu lịch sử của Việt Nam. Kể từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay vào chuẩn bị tích cực những điều kiện cần thiết để xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong “Chính cương vắn tắt” do Người soạn thảo đã xác định rõ một trong những nhiệm vụ “về phương diện chính trị” là: … “c) Dựng ra Chính phủ công nông binh”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Ngày 02/9/1945, Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu bước ngoặt phát triển vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bởi vì, “lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Rõ ràng, việc lựa chọn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn toàn xuất phát từ mục tiêu, ước vọng của cả dân tộc Việt Nam về một nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ, xã hội dân chủ, mà không phải là sự học theo nhà nước tư sản hay bất cứ mô hình nhà nước nào khác.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - những giá trị cốt lõi
Mặc dù ra đời trong điều kiện lịch sử rất đặc biệt “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh”, với xuất phát điểm từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền tảng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nhưng bằng những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã xây dựng được một nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân, là nền tảng chính trị - pháp lý có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng thành công chế độ mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Một là, Nhà nước pháp quyền do dân là chủ và dân làm chủ.
Trong nhà nước kiểu mới, Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”; Nhà nước pháp quyền phải xác lập được địa vị là chủ của mọi công dân, điều này hoàn toàn đối lập với thân phận nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến, thực dân trước đây. Nếu trước kia vua là tối thượng thì trong chế độ dân chủ, dân là chủ thể quyền lực. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong nhận thức về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, vì nó khẳng định địa vị là chủ của nhân dân ở văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp, điều chưa từng có ở các nhà nước trước đó. Dân là chủ đồng thời dân cũng làm chủ, điều đó khẳng định năng lực làm chủ của công dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức trách nhiệm…, đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ, sự kết hợp và thống nhất năng lực, địa vị của người chủ. Nhà nước pháp quyền phải thể chế hóa và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện vai trò trên.
Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền phải xác lập được mối quan hệ và phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của hai thành tố “người chủ” và “đày tớ”. Người khẳng định: “Nhà nước - là đày tớ của dân” và “công dân - là người chủ”. Đó là mối quan hệ thống nhất biện chứng, là biểu hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Người giải thích rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Trong mối quan hệ này, Nhà nước và công dân đều phải có bổn phận, trách nhiệm pháp lý và đạo đức với nhau, tạo nên sự gắn bó máu thịt như là cơ sở cho sự tồn tại của nhau. Tư cách “đày tớ” hay “công bộc” của Nhà nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải với nội hàm là vì lợi ích chung gánh vác việc dân, trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân và hoàn toàn không có đặc quyền, đặc lợi. Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện đúng tư cách người “đày tớ”, “công bộc” của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước đều phải hướng vào nhân dân, lấy lợi ích của người dân làm động lực cho mọi quyết sách của mình. Người nói: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Trong các việc làm của Nhà nước có lợi cho dân thì việc bảo đảm quyền lợi làm chủ của dân là việc làm quan trọng bậc nhất và có ý nghĩa rất cơ bản, tạo nền tảng cho việc phát huy đầy đủ sức mạnh của lực lượng nhân dân và hiệu lực của Nhà nước pháp quyền. Hồ Chí Minh yêu cầu Nhà nước phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.
Hai là, Nhà nước pháp quyền phải có “thần linh pháp quyền” và “thượng tôn pháp luật”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong tổ chức điều hành, quản lý xã hội, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versaile, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Đến năm 1922, Người đã khái quát, thể hiện quan điểm của mình trong bài “Việt Nam yêu cầu ca”: “Bảy xin Hiến pháp ban hành - Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được một phương cách để nói lên ý nghĩa thiêng liêng, tôn quý của Hiến pháp và pháp luật, nhưng lại rất gần gũi, dễ cảm nhận, tiếp thu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ làm theo. Tinh thần cao cả ấy được Người diễn đạt một cách rất độc đáo, xưa nay chưa từng thấy - “thần linh pháp quyền”. Với yêu sách thứ bảy này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra cốt lõi, tinh tuý của một Nhà nước pháp quyền trước hết là phải xây dựng được một hệ thống luật pháp thể hiện được ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi công dân.
Để có “thần linh pháp quyền”, khi xây dựng các đạo luật, theo Người đều phải xuất phát từ nhân dân, đảm bảo luật là ý chí chung của toàn dân, do nhân dân đóng góp xây dựng để phục vụ lợi ích của dân. Do đó, nếu một nhà nước cai trị bằng ý chí của nhà cầm quyền, mà không phải là ý chí của nhân dân đề lên thành luật, những kẻ cầm quyền dù nhân danh là những vị đứng đầu nhà nước hay những người lãnh đạo đảng cầm quyền... tự cho phép đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật..., thì kiểu nhà nước này rất xa lạ với tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, pháp luật phải có tác dụng khơi dậy ý thức tự giác của mọi công dân bằng thái độ khoan hồng, nhằm tạo điều kiện cho người “lầm đường lạc lối” có cơ hội sửa chữa khuyết điểm nếu thành thật “cải tà quy chính”.
Trên cơ sở hệ thống pháp luật dân chủ, nhân văn và tiến bộ, Hồ Chí Minh rất chú trọng hoạt động tổ chức thực thi pháp luật. Theo Người, pháp luật dù hoàn thiện, tiến bộ đến đâu cũng sẽ chỉ là hình thức và trở nên vô nghĩa nếu nó không được tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để trong thực tiễn cuộc sống. Do đó, “thượng tôn pháp luật” là chuẩn mực đạo đức cao nhất của mọi công dân trong Nhà nước pháp quyền. Người cho rằng: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của Quân đội”.
Người đòi hỏi tất cả mọi tổ chức trong bộ máy nhà nước và mọi công dân phải chấp hành nghiêm pháp luật, không ai được đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Đã nói đến pháp luật là nói đến tính nghiêm minh, nghiêm khắc ai cũng phải tuân theo dù người đó thuộc địa vị, giai tầng xã hội nào. Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ “bất liêm”, bất kì kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, tuyệt nhiên không có vùng cấm trong thực thi pháp luật. Người khẳng định: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”. Bản thân Người đã để lại hình ảnh mẫu mực về chấp hành pháp luật, được đồng bào tín nhiệm đề nghị không phải ra ứng cử đại biểu Quốc hội, mà nhân dân trực tiếp suy tôn Người vào Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời trung thực: “Tôi là một công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa”.
Ba là, nhà nước “liêm khiết”, vững mạnh, hoạt động hiệu quả.
“Liêm khiết”, vững mạnh, hoạt động hiệu quả là những phẩm chất quan trọng hàng đầu thể hiện tư cách của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực chất, đây chính là yêu cầu về “tài” và “đức”, trong đó “liêm khiết” là tiêu chuẩn đạo đức công vụ hàng đầu, yêu cầu tối thượng giữ vai trò là gốc rễ, nền tảng trong Nhà nước pháp quyền nói chung, trong tư cách người cán bộ, công chức nói riêng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết…”. Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Nhà nước phải tuyệt đối liêm khiết, tuyệt đối không để xảy ra hiện tượng bất liêm. “Bất liêm” là cách gọi khác của căn bệnh “tham ô”. Theo Hồ Chí Minh, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, là hành động xấu xa, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm tới mức là căn bệnh duy nhất mà Người từng xếp ngang hàng với tội phản quốc. Do đó, muốn có một nhà nước thực sự “liêm khiết” thì phải tuyệt đối không được “tham ô” và chống tham ô chính là công việc cần kíp như đánh giặc trên mặt trận của Nhà nước pháp quyền. Năm 1952, trong bài: “Thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Người đặt câu hỏi: “Tham ô là gì?” và giải thích như sau: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.
Để hoàn thành sứ mệnh “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, Nhà nước pháp quyền cần được xây dựng vững mạnh, hoạt động thực sự hiệu quả. Tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá bộ máy nhà nước vững mạnh, hoạt động hiệu quả là phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo. Người nói: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình”. Muốn vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Bởi vì, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là dây chuyền của bộ máy, là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân đảm bảo cho mọi chính sách, pháp luật được thông suốt từ trung ương đến cơ sở, đem lại kết quả trong thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước phải quy tụ được những người vừa có đức, vừa có tài, trong đó phải lấy đức là gốc. Đồng thời, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả; công tác tuyển chọn phải hết sức chặt chẽ, chu đáo và khách quan. Người đề ra những tiêu chuẩn trong lựa chọn cán bộ, công chức nhà nước với các phẩm chất cơ bản như: Tuyệt đối trung thành với cách mạng; hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước…
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, Nhà nước phải chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Theo đó, mọi chủ trương, chính sách phải phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người chỉ rõ: “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Nếu chính sách của Nhà nước đi ngược lòng dân, thậm chí “hại dân” thì tất yếu dân sẽ không thừa nhận tư cách của Nhà nước. Người khẳng định: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Bên cạnh đó, để hoạt động hiệu quả, bộ máy nhà nước phải bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan từ trung ương đến cơ sở, khắc phục tình trạng né tránh trách nhiệm.
Bốn là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi.
Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”. Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo và Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
3. Ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Lịch sử ra đời, xây dựng, phát triển và hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã chứng minh những tư tưởng đúng đắn, vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27/2022). Việc ban hành Nghị quyết chính là sự khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bám sát những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo tác giả, quá trình triển khai Nghị quyết cần thực hiện tốt những nội dung, biện pháp sau:
Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cả hệ thống chính trị về chủ trương “xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Nhận thức đúng là cơ sở cho hành động đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có lịch sử 77 năm xây dựng và phát triển. Chiều dài lịch sử chính là cơ sở để nhân dân ta nhận thức rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các thành tố trong bộ máy nhà nước có điều kiện được tiếp tục củng cố và hoàn thiện. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của thực tiễn, Nghị quyết số 27/2022 đề ra giải pháp tiếp tục “đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó, mỗi thành tố trong hệ thống chính trị và người dân cần nhận thức rõ đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; hiểu rõ mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều hướng tới bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho mọi giai tầng trong xã hội, mà không chỉ bảo vệ lợi ích cho những người có quyền thế, giàu có, hay cho nhóm cán bộ, quan chức như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Cần chủ động định hướng nhận thức và hành động của nhân dân trong tham gia xây dựng bộ máy nhà nước. Với tư cách là chủ và làm chủ, mỗi công dân cần phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong tham gia hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích là “người đày tớ trung thành của nhân dân”. Đồng thời, cần khắc phục nhận thức nóng vội, chủ quan, mong muốn có ngay Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, với điều kiện của một đất nước đã chịu nhiều tổn thất do chiến tranh xâm lược kéo dài, có xuất phát điểm đi sau, không có được những tiền đề vật chất vững vàng, thì việc muốn có ngay mọi thành quả như mong đợi; nhanh chóng đưa đất nước phát triển thịnh vượng, người dân khá giả, sung túc là điều không thể đạt được trong thời gian ngắn. Do đó, phải chú trọng củng cố niềm tin của nhân dân vào sự chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, nhất là quyết tâm xây dựng Nhà nước liêm khiết, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn lãnh đạo hiệu quả phải có “cách lãnh đạo đúng”. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay có sự phát triển mới ngày càng cao, nhất là trước những thách thức khó dự báo của tình hình trong nước và quốc tế. Để theo kịp tình hình, bảo đảm Nhà nước pháp quyền hoạt động đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng cũng cần thường xuyên đổi mới. Trong đó, trọng tâm là nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết; chỉ đạo hiệu quả quá trình tinh giản tổ chức bộ máy; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; tổ chức kiểm tra, thanh tra… Quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền cần được tiến hành đồng bộ, quyết liệt từ tư duy đến hành động, từ trung ương đến cơ sở, chú trọng đề cao “trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”.
Ba là, tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và cơ quan báo chí.
Cần tiếp tục quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Theo đó, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước cần bảo đảm minh bạch, nâng cao chất lượng giải trình, nhất là trên các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, vi phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”; cơ chế bảo vệ người tố cáo các hành vi vi phạm trong bộ máy nhà nước…
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan báo chí cần chủ động tham gia vào việc xây dựng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua nhiều hình thức, phương thức khác nhau như góp ý, phản biện xã hội các văn bản quy phạm pháp luật; giám sát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung những văn bản còn bất cập, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phản ánh ý kiến của nhân dân về các vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, tăng cường kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước.
Trong Nhà nước pháp quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực khi trao cho cán bộ, đảng viên. Việc tăng cường kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước là cơ sở để ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực trong bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng lạm quyền, lộng quyền, độc đoán hoặc buông lỏng quyền lực. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân, nên để kiểm soát tốt quyền lực, ngoài việc đẩy mạnh cải cách thể chế, chú trọng phân công, phân quyền gắn với minh bạch hóa mọi hoạt động, nâng cao chất lượng các cơ quan kiểm tra, thanh tra chuyên trách… thì giải pháp cơ bản, nền tảng là phải hoàn thiện cơ chế vai trò giám sát, kiểm soát quyền lực của nhân dân.
Có thể khẳng định, hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam rất cấp bách, bởi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức cơ bản bảo đảm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”.
-
1Vướng mắc về đánh giá chứng cứ khi giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
-
2Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
Bài viết chưa có bình luận nào.