Trần Thị T không phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”

02/11/2016 09:44

(kiemsat.vn)
Sau khi đọc nội dung bài viết: “Trần Thị T có phạm tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức không?” của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương đăng trên Kiemsat.vn ngày 27/10/2016, tôi có ý kiến trao đổi như sau:

Tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại Điều 267 của BLHS. Theo đó, tại khoản 1 Điều 267 quy định như sau:

“Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Như vậy, khái niệm làm giả theo quy định của pháp luật là hành vi làm giống như thật các loại con dấu, giấy tờ hiện đang được phép lưu hành hoặc làm ra các loại con dấu, giấy tờ mới hoàn toàn, chưa có loại tương tự trong đời sống. Những hành vi giả mạo này chỉ được coi là phạm tội khi các tài liệu, giấy tờ, con dấu giả được sử dụng vào một việc làm trái pháp luật, như để được vào biên chế, đi nước ngoài, hưởng chế độ ưu tiên…

Làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức là hành vi của người không có thẩm quyền cấp các giấy tờ đó nhưng đã tạo ra các giấy tờ đó bằng những phương pháp nhất định để coi nó như thật. Việc làm giả này có thể là giả toàn bộ hoặc chỉ từng phần (tiêu đề, chữ ký, con dấu, nội dung…). Hành vi phạm tội này hoàn thành kể từ khi người không có thẩm quyền tạo ra được con dấu, tài liệu, các giấy tờ giả của một cơ quan Nhà nước, tổ chức nhất định (kể cả cơ quan Nhà nước hay tổ chức đó không có thật hoặc đã bị giải thể). Điều luật không yêu cầu việc “làm” giả này phải nhằm sử dụng hoặc đã sử dụng vào mục đích gì.

Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức để lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân. Đây là trường hợp người phạm tội không có hành vi “làm” giả các đối tượng trên nhưng đã có hành vi “sử dụng” chúng để lừa dối cơ quan Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. “Lừa dối” ở đây có nghĩa là người phạm tội sử dụng các đối tượng đó trong giao dịch với cơ quan Nhà nước, tổ chức hoặc công dân khiến cho các đối tác giao dịch thông tin đó là đối tượng thật.

Hành vi sử dụng con dấu, giấy tờ… quy định trong Điều 267 BLHS là sử dụng các con dấu, giấy tờ… được tạo ra từ nguồn gốc không đúng thẩm quyền. Đối với hành vi sử dụng, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có hành vi sử dụng các đối tượng trên để lừa dối cơ quan Nhà nước, tổ chức hoặc công dân, không cần xảy ra hậu quả.

Với những lập luận, phân tích nêu trên, trở lại vụ việc trong bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương cho thấy, ở đây T hoàn toàn không làm mới, làm giống như thật bản kết luận giám định Pháp y về độ tuổi, mà bản kết luận đó được Viện pháp y Quốc gia – Phân viện tại thành phố Hồ Chí Minh ban hành nên đây không phải là tài liệu giả như đối tượng trong tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định trong BLHS. Nguồn gốc của bản kết luận về độ tuổi mà T sử dụng được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền. Nên Trần Thị T không phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 267 BLHS.

Trên đây là ý kiến về bài viết “Trần Thị T có phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” không?” của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương. Rất mong tiếp tục nhận được ý kiến trao đổi từ bạn đọc./.

Trần Văn Hùng
TAQS khu vực 2 Quân khu 4

Trần Thị T phạm tội “Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật”

(Kiemsat.vn) - Sau khi đọc bài viết: Trần Thị T có phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” không? đăng trên Kiemsat.vn ngày 27/10/2016, tôi có ý kiến trao đổi như sau:

Hành vi của Trần Thị T không phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”

(Kiemsat.vn) - Sau khi nghiên cứu bài viết: Trần Thị T có phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” không? của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Vụ 1 VKSND tối cao đăng trên Kiemsat.vn ngày 27/10/2016, tôi có ý kiến trao đổi như sau:
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang