Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong BLHS năm 2015 và dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017

25/05/2017 07:20

(kiemsat.vn)
Quy định về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm tại Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 có một số điểm mới, tiến bộ, hợp lý, khả thi, khắc phục được những hạn chế, bất cập của quy định tại Điều 244 BLHS năm 1999 về tội phạm này

1. Khái quát tình hình kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm ở nước ta trong thời gian qua

1.1. Khái quát tình hình kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm

Theo Báo cáo số 211/BC-CP ngày 18/5/2017 của Chính phủ về tình hình thực thi chính sách, pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 – 2016 thì các cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành kiểm tra tại 3.350.035 cơ sở, phát hiện 678.755 cơ sở vi phạm, chiếm 20,3%.

Trong số 678.755 cơ sở vi phạm, mới chỉ có 136.545 cơ sở bị xử lý, chiếm 20,1%, trong đó phạt tiền 55.714 cơ sở với số tiền 133.905.925.136 đồng. Việc áp dụng các chế tài xử phạt đã được đẩy mạnh qua các năm, cụ thể: Tỉ lệ cơ sở bị phạt tiền (trước đây chỉ là cảnh cáo) tăng từ 30,0% năm 2011 lên 67,1% trong năm 2016; số tiền phạt trung bình 1 cơ sở tăng từ 1,35 triệu (năm 2011) lên 3,73 triệu (năm 2016). Đặc biệt trong năm 2016, Bộ Y tế đã tiến hành thanh tra Công ty URC, Công ty Coca Cola và Công ty Minh Thái Lộc cung cấp phụ gia thực phẩm cho Công ty URC, đã xử phạt vi phạm hành chính 03 Công ty này gần 6,5 tỷ đồng. Kết quả xử phạt này đã thể hiện tính răn đe cao đối với các cơ sở cố tình vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm (ATTP).

TP HCM: Mở đường dây nóng tiếp nhận thông tin về ATVSTP dịp Tết
Ảnh có tính minh họa (nguồn intenet)

Trong giai đoạn 2011 – 2016, các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và 44 tỉnh/thành phố đã tổ chức được 14.787 cuộc kiểm tra về an toàn thực phẩm theo kế hoạch đối với 151.017 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông lâm thủy sản, xử phạt cảnh cáo 11.324 cơ sở (chiếm 7%), xử phạt tiền 6.138 cơ sở (chiếm 4%) với tổng số tiền phạt là 18.968 triệu đồng; tổ chức 1.071 cuộc thanh, kiểm tra đột xuất về an toàn thực phẩm đối với 7.672 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông lâm thủy sản, xử phạt cảnh cáo 1.146 cơ sở (chiếm 15%), xử phạt tiền 1.050 cơ sở (chiếm 14%) với tổng số tiền phạt là 4.907 triệu đồng. Đặc biệt năm 2015, 2016 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức 02 đợt cao điểm thanh, kiểm tra đấu tranh đẩy lùi đi đến chấm dứt việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, ngăn chặn, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Ngành Công Thương đã kiểm tra, xử lý 55.580 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP; tổng số tiền thu được từ việc xử phạt vi phạm hành chính là 143,445 tỷ đồng; trị giá hàng hóa là 90,084 tỷ đồng. Ngành Công an (nòng cốt là Cảnh sát môi trường) đã phát hiện 13.296 vụ việc vi phạm pháp luật về ATTP, trực tiếp xử lý 8.276 vụ, xử phạt hành chính 64,942 tỷ đồng, chuyển cơ quan khác xử lý 5.020 vụ.

1.2. Khái quát tình hình xử lý vi phạm hình sự về an toàn thực phẩm

Theo thống kê của Công an các đơn vị, địa phương trong thời gian từ 2011 – 2016, cơ quan điều tra các cấp trong Công an nhân dân chỉ khởi tố 01 vụ, 03 bị can về tội danh vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm” theo Điều 244 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cụ thể là, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố vụ án Nguyễn Duy Vường – Giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu 29 Hà Nội cùng 02 nhân viên là Trần Xuân Mạnh và Đặng Văn Cảnh có hành vi vi phạm quy định về vệ sinh ATTP trong sản xuất rượu gây ngộ độc làm chết 04 người tại Quảng Ninh.

Ngoài ra, cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp trong Công an nhân dân đã khởi tố, điều tra, đề nghị truy tố 90 vụ, 148 bị can có hành vi phạm tội liên quan đến an toàn thực phẩm, cụ thể: 74 vụ, 117 bị can về tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 BLHS năm 1999); tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh (Điều 157 BLHS năm 1999); 9 vụ, 12 bị can về tội buôn lậu hàng hóa là thực phẩm (Điều 153 BLHS năm 1999); 7 vụ, 19 bị can về tội vận chuyển trái phép hàng hóa là thực phẩm qua biên giới (Điều 154 BLHS năm 1999).

2. Đánh giá tình hình kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm ở nước ta trong thời gian qua và nguyên nhân

Kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm cho thấy, tình hình vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm ở nước ta trong thời gian qua là rất đáng báo động, tuy nhiên, việc xử lý hành chính còn ít và nhẹ; việc xử lý hình sự hầu như không được thực hiện. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên đó là do hạn chế, bất cập của quy định về tội vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Điều 244 của BLHS năm 1999:

Điều 244. Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm

1. Người nào chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, tình hình vi phạm và tội phạm về an toàn thực phẩm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Những hạn chế, bất cập của BLHS hiện hành được thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau(1):

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về vệ sinh ATTP. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, BLHS phải thể hiện đúng vai trò là công cụ hữu hiệu để bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, BLHS hiện hành nhìn chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, tội phạm vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm có nhiều thay đổi phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện… Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm các quy định về vệ sinh ATTP nói riêng, đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW); Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW). Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự mà BLHS cần phải được thể chế hóa một cách đầy đủ.

Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, một mặt, BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Vì vậy, BLHS phải được tiếp tục hoàn thiện để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ một môi trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; động viên, khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân yên tâm tham đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, sáng tạo khoa học.

Thứ ba, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến các quy định mang tính định tính; sự thống nhất giữa các dấu hiệu định tội, định khung; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt… Những bất cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.

Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc sửa đổi quy định về tội vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm là hết sức cần thiết.

3. Đánh giá quy định về t ội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm tại Điều 317 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017

Ðiều 317. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm quy định về an toàn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm chế biến từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy mà sản phẩm có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc sản phẩm có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

d) Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 20.000.000 đồng hoặc gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

đ) Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc thực phẩm có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

e) Nhập khẩu, cung cấp, bán thực phẩm chế biến từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Làm chết người;

c) Gây ngộ độc cho từ 21 người đến 100 người;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

e) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

g) Sản phẩm sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

h) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây ngộ độc cho từ 101 người đến 200 người;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

d) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

đ) Sản phẩm sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

e) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây ngộ độc cho 201 người trở lên;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

d) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng có giá trị 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;

đ) Sản phẩm sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy có giá trị 500.000.000 đồng trở lên;

e) Sản phẩm, thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam có giá trị 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Quy định về t ội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm tại Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 có một số điểm mới, tiến bộ, hợp lý, khả thi, khắc phục được những hạn chế, bất cập của quy định tại Điều 244 BLHS năm 1999 về tội phạm này; cụ thể như sau:

Một là, Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã tội phạm hóa 5 nhóm hành vi phạm tội mới về an toàn thực phẩm như:

Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm;

– Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm chế biến từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy;

– Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm;

– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng;

– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.

Những sửa đổi, bổ sung này góp phần bảo vệ tốt hơn quyền được sống trong một môi trường an lành của người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống các hành vi của một số người vì lợi ích cá nhân mà bất chấp đến an nguy về tính mạng, sức khỏe của người khác đã thực hiện các hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm không đảm bảo an (2). Điểm mới này, một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm các quy định về vệ sinh ATTP nói riêng.

Hai là, Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã cụ thể các quy định mang tính định tính, chung chung, không rõ ràng trong BLHS năm 1999 như “chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng; gây hậu quả rất nghiêm trọng; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” sang quy định mang tính định lượng, cụ thể, rõ ràng như:

Gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; làm chết người; gây ngộ độc cho từ 21 người đến 100 người; gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;…

Việc sửa đổi các quy định mang tính định tính trong BLHS năm 1999 sang các quy định mang tính định lượng trong BLHS năm 2015 là bước tiến mới, góp phần khắc phục hạn chế, bất cập của quy định về tội vi phạm quy định về ATTP trong BLHS năm 1999, bởi lẽ: Nếu BLHS càng quy định tội vi phạm quy định về ATTP cụ thể bao nhiêu thì bản thân mọi cá nhân, doanh nghiệp, mọi tổ chức, đơn vị, cơ quan càng có điều kiện để nhận thức rõ hành vi nào bị coi là tội phạm vi phạm quy định về ATTP. Vì vậy, họ sẽ tránh không đi vào con đường phạm tội và điều này có tác dụng rất tốt trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quy định cụ thể trong BLHS giống như đèn đỏ giao thông, nếu nó càng rõ thì người tham gia giao thông càng dễ nhận biết để dừng lại kịp thời, không vi phạm pháp luật và không gây hậu quả xấu cho xã hội; có điều kiện để nhắc nhở, giáo dục, ngăn chặn người thân của mình và những cá nhân khác trong xã hội; ngăn chặn những thành viên trong doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị, cơ quan mình tránh đi vào con đường phạm tội; đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Thêm vào đó, quy định về tội vi phạm quy định về ATTP trong BLHS càng cụ thể bao nhiêu thì càng chống oan, sai tốt bấy nhiêu và nhờ vậy, càng nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với đánh giá của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIII về nguyên nhân dẫn đến tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, đó là: “Một số quy định của BLHS còn bất cập, thiếu hướng dẫn các tình tiết định tính như: Hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; vấn đề định lượng tài sản trong một số tội phạm(3) chính là nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta trong thời gian qua(4).

Ba là, Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định cụ thể, khoa học, hợp lý các dấu hiệu định tội, vừa giúp phân biệt rõ tội phạm với vi phạm quy định về an toàn thực phẩm; vừa không xử lý “tràn lan” người nông dân nghèo, lạc hậu, ở vùng sâu, vùng xa; vừa không bỏ lọt tội phạm; vừa trừng trị nghiêm minh mọi hành vi phạm tội; cụ thể là: Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định rõ 4 dấu hiệu định tội tương ứng với 4 trường hợp bị coi là tội phạm, đó là: Người nào sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm (i) mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc (ii) gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc (iii) gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc (iv) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Việc định lượng để làm căn cứ xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm quy định về an toàn thực phẩm là cần thiết, khả thi, tránh việc mở rộng phạm vi về đối tượng xử lý hình sự, trong đó có nhiều hộ nông dân, cá nhân sản xuất nông nghiệp, chế biến và kinh doanh thực phẩm nhỏ, lẻ. Bộ luật Hình sự chỉ nên xử lý các trường hợp vi phạm quy định về an toàn thực phẩm mà thực phẩm có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn, hậu quả gây ngộ độc cho nhiều người, gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người khác… Các trường hợp khác chưa đến mức xử lý hình sự thì cần tăng cường công tác quản lý nhà nước, nhất là xử lý hành chính nghiêm cũng đủ răn đe, phòng ngừa và hạn chế đáng kể tình trạng vi phạm về an toàn thực phẩm(5).

Bốn là, Điều 317 của BLHS năm 2015 được dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017, ngoài hình phạt bổ sung được nâng mức hình phạt tiền “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” còn quy định hình phạt chính trong một khung và hình phạt trong các khung có sự gối nhau hoặc nối tiếp nhau, với khoảng cách phù hợp giữa mức tối thiểu và mức tối đa của từng khung hình phạt. Điểm mới này giúp các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình phạt được dễ dàng, thống nhất, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và tránh tùy tiện, tiêu cực trong quyết định hình phạt. Cụ thể là:

Khoản 1 quy định:  Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm quy định về an toàn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

Khoản 2 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm;

Khoản 3 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;

Khoản 4 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Những điểm mới này đã thể chế hoá được quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp; theo đó, một mặt, BLHS đã bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác đã đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; giúp người dân cảm thấy an toàn về môi trường sống, yên tâm phát huy tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tích cực, chủ động tham gia phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật; ngăn chặn tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm đã đến mức báo động như hiện nay; khắc phục bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến các quy định mang tính định tính; bảo đảm thống nhất giữa các dấu hiệu định tội, định khung. Cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt… tạo điều kiện thuận lợi trong áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế; tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân.

1. Xem thêm: Chính phủ (2015), Tờ trình về dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) số 186/TTr-CP ngày 27/ 4/ 2015.

2. Xem thêm: Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Hà Nội, tháng 4/2015

3. Xem thêm: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), đoạn 1 khoản 2 Mục III Báo cáo số 870/BC-UBTVQH13 ngày 20/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”.

4. Xem thêm: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Mục I Báo cáo số 870/BC-UBTVQH13 ngày 20/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”.

5. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2017), Báo cáo số 117/BC-UBTVQH14 ngày 20/5/2017 của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2017), Báo cáo số 211/BC-CP ngày 18/5/2017 của Chính phủ về tình hình thực thi chính sách, pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 – 2016 gửi các vị Đại biểu Quốc hội.

2. Quốc hội (2017), Bản hợp nhất giữa BLHS năm 2015 và dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) trình Quốc hội khóa XIV xem xét, thông qua ngày 24/5/2017.

Tiến sĩ Đỗ Đức Hồng Hà

Ủy viên thường trực Ủy ban tư pháp của Quốc hội khóa XIV

.

VKSND thành phố Hà Nội tập huấn BLTTHS và BLHS năm 2015

(Kiemsat.vn) – Ngày 16/10, VKSND thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị trực tuyến tập huấn BLTTHS và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và được truyền trực tuyến đến 30 điểm cầu VKSND hai cấp.

Bãi bỏ tội hoạt động phỉ trong BLHS năm 2015

(Kiemsat.vn) – BLHS năm 2015 đã bỏ tội hoạt động phỉ, nhưng chuyển hóa các hành vi vào các điều luật quy định về tội danh khác.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang