Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn truy tố và vấn đề nâng cao chất lượng bản cáo trạng

27/03/2017 12:48

(kiemsat.vn)
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thể chế hóa quy định này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã có những quy định rất cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng giai đoạn tố tụng hình sự.

Để nắm và hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật về vấn đề này, bài viết trao đổi về những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS mới được quy định trong giai đoạn truy tố và một số ý kiến về nâng cao chất lượng bản cáo trạng do Viện kiểm sát ban hành.

Kiểm sát viên công bố cáo trạng – Ảnh Internet

Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn truy tố

Giai đoạn truy tố là giai đoạn tiếp theo của hoạt động tố tụng hình sự, được tính từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu hồ sơ của vụ án hình sự kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể do luật định không chỉ là để kiểm tra lại kết quả của toàn bộ các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã tiến hành, tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định, hoạt động đó, mà còn bảo đảm cho quyết định của Viện kiểm sát được chính xác, khách quan, toàn diện; góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm; góp phần tăng cường bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp kể cả của bị can cũng như những người có liên quan trong vụ án.

Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố, nên trong thực tế đã gặp phải những khó khăn, vướng mắc hoặc lúng túng khi Viện kiểm sát áp dụng các quy định pháp luật cụ thể làm căn cứ pháp lý để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định. Khắc phục tình trạng này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã có sự đổi mới rất lớn, quy định rõ hơn không chỉ về nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực công tác của ngành Kiểm sát, mà còn cả trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố (Điều 16, Điều 17 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 236, Điều 237 BLTTHS năm 2015). Cụ thể, trong giai đoạn này:

– Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố là: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra. Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra. Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung. Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Quyết định truy tố. Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; quyết định phục hồi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo quy định của BLTTHS (Điều 236).

– Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát là: Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để kiểm sát trong giai đoạn truy tố theo quy định của BLTTHS (Điều 237).

Những quy định trên rất quan trọng và lần đầu tiên được quy định trong Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý để Viện kiểm sát tăng cường vai trò, trách nhiệm, thực hiện hiệu qủa chức năng, nhiệm vụ trong tố tụng hình sự. Với các quy định mới này, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát trong giai đoạn truy tố được cụ thể hóa, quy định rõ ràng, minh bạch, bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách chủ động, đúng pháp luật, hiệu quả.

Quyết định truy tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của Viện kiểm sát

Nhiệm vụ này đã được quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và BLTTHS năm 2003. Theo đó, Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Đó là một văn bản tố tụng hình sự chỉ do Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố ban hành, có giá trị pháp lý và ý nghĩa cáo buộc bị can về những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Nội dung bản cáo trạng được quy định rất cụ thể tại Điều 167 BLTTHS năm 2003, từ 01/01/2017 là Điều 243 BLTTHS năm 2015. Tuy vậy, quá trình triển khai thực hiện nội dung bản cáo trạng theo quy định của BLTTHS năm 2003 cho thấy, những nội dung của bản cáo trạng theo quy định như vậy chưa thể hiện được đầy đủ và còn thiếu những thông tin cần thiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, như: Diễn biến hành vi phạm tội; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội… hoặc phần kết luận chưa quy định phải ghi rõ điểm của khoản trong điều luật được áp dụng. Khắc phục hạn chế này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung những nội dung này làm cho bản cáo trạng được đầy đủ, bảo đảm cho quá trình truy tố được chặt chẽ hơn; đánh giá được đầy đủ, đúng đắn tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; giúp cho Kiểm sát viên tranh tụng, luận tội tại phiên tòa có căn cứ pháp lý, góp phần để Tòa án đưa ra phán quyết đúng pháp luật.

Bản cáo trạng là căn cứ đầu tiên để xác định phạm vi và cơ sở cho Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Bản cáo trạng phải thể hiện được tính quyền lực nhà nước, tính có căn cứ và đúng pháp luật, bảo đảm đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân. Với những ý nghĩa và đặc trưng này của bản cáo trạng, thời gian qua, Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều hình thức, biện pháp rất tích cực để loại văn bản tố tụng này của mình có chất lượng và hiệu quả cao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng và ban hành Mẫu cáo trạng thống nhất trong toàn ngành (mẫu số 107 ban hành kèm theo Quy chế số 07). Cùng với việc triển khai thực hiện nghiêm túc theo mẫu, Viện kiểm sát các cấp còn tổ chức các đợt tập huấn, rút kinh nghiệm… để giúp cho các Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp kịp thời nắm vững và khắc phục những vi phạm khi xây dựng cáo trạng trong từng vụ án cụ thể.

Tuy vậy, qua thực tiễn và nghiên cứu các văn bản rút kinh nghiệm về việc xây dựng cáo trạng của VKSND các địa phương gửi tới theo quy định, chúng tôi thấy, mặc dù về cơ bản, các bản cáo trạng đã ban hành vừa qua được xây dựng bảo đảm quy định của pháp luật về nội dung, mẫu văn bản tố tụng, nhưng cũng còn không ít bản cáo trạng chưa đảm bảo. Nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng công tác và vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân, theo chúng tôi, việc nâng cao chất lượng của bản cáo trạng vẫn là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa rất thiết thực mà Viện kiểm sát các cấp cần tập trung chỉ đạo và thực hiện trong thời gian tới.

Một số vấn đề cần chú ý để nâng cao chất lượng bản cáo trạng

Thứ nhất: Bản cáo trạng phải bảo đảm được đầy đủ những nội dung cần có theo quy định tại Điều 243 BLTTHS năm 2015; việc xây dựng bản cáo trạng phải thực hiện đầy đủ, đúng các quy trình đã được hướng dẫn và quy định trong các quy chế nghiệp vụ của ngành từ việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển tới, đến việc viết dự thảo, chỉnh sửa dự thảo và trình lãnh đạo Viện phê duyệt cáo trạng; nhất là việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.

Theo quy định của pháp luật và sự phân công của ngành, thì người thực hiện nội dung các quy trình nêu trên chủ yếu là những Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, các đồng chí lãnh đạo đơn vị đã được phân công trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra hoặc trực tiếp chỉ đạo việc giải quyết vụ án hình sự đó. Việc nắm vững nội dung cũng như các diễn biến khác có liên quan đến vụ án ngay từ khi khởi tố vụ án sẽ đem lại nhiều thuận lợi khi thụ lý giải quyết vụ án tiếp ở giai đoạn truy tố, nhất là việc xây dựng các trạng truy tố bị can trước Tòa án. Tuy vậy, trong thực tế, với nhiều lý do, nhất là do chủ quan hoặc quá tự tin vào kết quả đã nắm được và dựa vào bản kết luận điều tra, nên đã xảy ra không ít các trường hợp bản cáo trạng được ban hành gần tương tự như bản kết luận điều tra hoặc có những điểm chưa phù hợp, chính xác với những gì đã được thu thập và có trong hồ sơ, nhất là việc phản ánh và bổ sung những diễn biến mới sau khi Cơ quan điều tra đã ban hành bản kết luận điều tra, số bút lục để chứng minh những nội dung đã nêu trong bản cáo trạng là có căn cứ. Vì thế, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra do Cơ quan điều tra chuyển tới luôn là nội dung công việc không thể bỏ qua hoặc làm không hết trách nhiệm của mình; nhất là với những trường hợp vụ án mới được tiếp nhận do Viện kiểm sát cấp trên phân công hoặc Viện kiểm sát cùng cấp chuyển đến để truy tố theo thẩm quyền.

Thứ hai: Phải thực hiện nghiêm túc và thể hiện đầy đủ các nội dung cần có của bản cáo trạng theo quy định của pháp luật và theo mẫu quy định.

Mẫu cáo trạng số 107 là mẫu chuẩn đã được VKSND tối cao xây dựng và hướng dẫn toàn ngành thực hiện trên cơ sở quy định của Điều 167 BLTTHS năm 2003, về cơ bản vẫn đáp ứng được với yêu cầu của Điều 243 BLTTHS năm 2015 cả về hình thức và nội dung. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng bản cáo trạng, theo chúng tôi, mẫu cáo trạng sẽ được ban hành kèm theo Quy chế sửa đổi, bổ sung Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố, điều tra và truy tố của Viện kiểm sát, ngoài phần hình thức và nội dung đã được hướng dẫn tại Mẫu số 107, cần phải lưu ý phản ánh đầy đủ cả những nội dung mới được sửa đổi, bổ sung tại Điều 243 BLTTHS năm 2015, như: Phải “ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội”, “những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can”, “tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”, “việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”, “đặc điểm nhân thân của bị can”, “việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng”, “nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội”. Phần kết luận phải ghi rõ không chỉ tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng, mà cả điểm của điều khoản đó.

Thứ ba: Phải phản ánh đầy đủ và trung thực nội dung vụ án đã được điều tra, thu thập và thể hiện trong hồ sơ vụ án cùng với các bút lục hồ sơ cụ thể để chứng minh mọi diễn biến hành vi phạm tội, những tính tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Đây là yêu cầu rất quan trọng, đòi hỏi khi xây dựng cáo trạng phải vận dụng tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội và pháp lý để phản ánh một cách ngắn gọn, nhưng đầy đủ, toàn diện nội dung vụ án. Để thực hiện được, theo chúng tôi, cần lưu ý một số điểm sau:

– Về động cơ, mục đích phạm tội. Đây là vấn đề thuộc về ý thức chủ quan của người phạm tội. Việc làm rõ được động cơ, mục đích phạm tội trong một số trường hợp còn là tình tiết định tội, định khung tăng nặng trong các tội phạm cụ thể được Bộ luật Hình sự quy định. Trong thực tiễn, khi bị khởi tố, điều tra, người phạm tội thường tìm cách lẩn tránh hoặc không ít trường hợp còn cố tình đưa ra các tình tiết khác nhằm che giấu ý thức chủ quan, nhất là động cơ mục đích phạm tội của mình. Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để xây dựng cáo trạng phải nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và có trong hồ sơ; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện để chứng minh, làm rõ ý thức chủ quan của người phạm tội; tránh áp đặt theo ý chủ quan của người xây dựng bản cáo trạng.

– Về diễn biến hành vi phạm tội của bị can được thể hiện trong bản cáo trạng trên cơ sở tổng hợp đánh giá đầy đủ, toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc thể hiện diễn biến hành vi phạm tội được trình bày một cách logic, có thứ tự theo thời gian, không gian… từ khi bị can chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội, bàn bạc, phân công, thống nhất với các đồng phạm, tiếp cận địa điểm phạm tội, phương pháp cách thức tiến hành….

Việc viện dẫn bút lục phải trên cơ sở tổng hợp nguồn chứng cứ theo từng giai đoạn diễn biến tội phạm. Không viện dẫn bút lục theo từng chứng cứ và cũng không viện dẫn bút lục theo kiểu liệt kê sau khi trình bày toàn bộ nội dung hành vi phạm tội.

– Việc viết bản cáo trạng cũng có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng qua nghiên cứu, thấy cáo trạng của Viện kiểm sát các cấp được viết chủ yếu qua hai cách viết phổ biến là: Viết quy nạp và viết diễn giải. Viết theo cách quy nạp là cách viết đi thẳng vào việc xác định hành vi phạm tội để làm cơ sở quy kết hành vi. Cách viết này thường được thấy ở các vụ án có chứng cứ rõ ràng, phạm tội quả tang, bị can nhận tội… Còn cách viết diễn giải là cách viết diễn đạt và giải thích; thường thấy ở các vụ án có nhiều bị can, nhiều hành vi phạm tội, bị can không nhận tội… Để việc viết nội dung bản cáo trạng đảm bảo yêu cầu, chúng tôi xin gợi ý về cách viết ở một số trường hợp cụ thể như sau:

+ Đối với vụ án bị can không nhận tội phải bắt đầu từ lời khai bị hại, nhân chứng, tài liệu xác minh… để chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Sau đó nêu lời khai bị can và lập luận bác bỏ lời khai này.

+ Đối với vụ án được sáp nhập nhiều vụ án khác nhau, vụ án có nhiều bị can thực hiện nhiều hành vi về cùng một loại tội phạm hoặc thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau, hành vi phạm tội của các bị can đan xen lẫn nhau trong các vụ án khác nhau, thì lấy bị can cầm đầu, thực hiện nhiều vụ án khác nhau làm trung tâm, sau đó phân ra thành từng nhóm tội phạm, từng vụ việc phạm tội hoặc từng hành vi phạm tội cụ thể. Trong mỗi nhóm này, viết rõ từng vụ án, nêu rõ diễn biến từng hành vi phạm tội cụ thể theo trình tự thời gian.

Trong từng hành vi phạm tội cụ thể đó cũng được phản ánh rõ vị trí, vai trò và hành vi cụ thể của từng bị can tham gia.

+ Đối với các hành vi phạm tội được phát hiện trong quá trình điều tra thì khi viết cáo trạng nêu hết vụ án được khởi tố ban đầu sau đó trình bày theo thứ tự thời gian từng lần phạm tội sau cho đến hết.

Đối với những vụ án có một bị can hoặc nhiều bị can, phạm nhiều tội hoặc gây ra nhiều vụ án nhưng cùng một tội danh, thì nêu từng hành vi phạm tội theo trình tự thời gian diễn ra hành vi phạm tội hoặc trình tự phát hiện, khám phá vụ án hoặc theo tính chất tội phạm, từ tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm trọng đến ít nghiêm trọng.

Sau khi mô tả hành vi phạm tội của các bị can xong, phải tổng hợp hành vi phạm tội của từng bị can, mỗi bị can tham gia bao nhiêu vụ án, tính chất, mức độ, hậu quả… để xác định vai trò của từng bị can, làm căn cứ để quy kết, áp dụng các điểm, khoản điều luật của Bộ luật Hình sự, cũng như làm cơ sở cho việc luận tội, đề xuất mức hình phạt khi luận tội.

+ Đối với những vụ án có đồng phạm, phải mô tả cụ thể hành vi của mỗi bị can, vai trò từng bị can trong vụ án, nêu rõ và chi tiết những hành vi vượt quá của bị can trong vụ án đồng phạm (nếu có) để làm cơ sở cho việc quyết định truy tố các bị can về những tội danh mà bị can đã thực hiện.

+ Đối với những vụ án được phát hiện, khám phá do đơn thư của quần chúng nhân dân, do kết quả của công tác trinh sát (thường được hiểu là những vụ án bắt truy xét), thì không nên trình bày như những vụ án bắt quả tang là viết ngay vào nội dung của vụ án; mà đối với những vụ án loại này, trước khi trình bày nội dung vụ án cần nêu rõ căn cứ khởi tố, lý do phát hiện, khám phá vụ án như: Đơn trình báo của bị hại, người làm chứng… trên cơ sở đó Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định được sự kiện phạm tội.

+ Trong trường hợp bị can phạm tội bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra lại phát hiện trước đó bị can gây ra một hoặc nhiều vụ án khác, thì trình bày diễn biến của vụ án phạm tội quả tang trước, sau đó nêu rõ quá trình điều tra đã xác định được bị can còn thực hiện các hành vi phạm tội trước đó. Cách viết chuyển tiếp từ vụ án phạm tội quả tang sang có thể là: Ngoài vụ án trên, trước đó bị can còn gây ra…; hoặc trong quá trình điều tra, bị can đã khai nhận trước đó đã thực hiện… rồi trình bày lần lượt từng vụ án đó theo trình tự thời gian phạm tội mà bị can đã thực hiện.

Trên đây là một số vấn đề cơ bản về những quy định mới của BLTTHS năm 2015 về những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát mới được quy định trong giai đoạn truy tố và một số ý kiến trao đổi kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng bản cáo trạng do Viện kiểm sát ban hành.

TS. Nguyễn Minh Đức

Vụ trưởng Vụ 4, VKSND tối cao

Nguồn: TCKS số 16/2016.


Ai có quyền điều tra đối với vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài?

(Kiemsat.vn) - Yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bao gồm: Người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài (nếu xét xử tại Việt Nam), vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang