Nguyên tắc suy đoán vô tội và những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

18/04/2025 08:00

(kiemsat.vn)
Từ thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, trong đó có các quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội. Việc hoàn thiện các quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ giúp cho việc chứng minh tội phạm được chính xác, khách quan và hiệu quả mà còn góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

1. Khái quát về nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới

Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự (TTHS). Khoản 1 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc quy định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai, với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Tương tự, quyền được coi là vô tội cũng được ghi nhận tại Điều 6 Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản (ECHR, 1950), Điều 8 Công ước nhân quyền châu Mỹ (ACHR, 1969) và Điều 7 Hiến chương Châu Phi về quyền con người và các dân tộc (Hiến chương Châu Phi, 1981).

Theo các quy định trên, nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện qua 03 vấn đề chính. Thứ nhất, về chủ thể được hưởng quyền suy đoán vô tội là những người bị cáo buộc về hình sự, còn chủ thể áp dụng thuộc về bên buộc tội; thứ hai, về nội dung: Suy đoán vô tội được hiểu rằng phải coi người bị cáo buộc về hình sự là không có tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi họ được bảo đảm quyền bào chữa cho mình; thứ ba, về thời gian suy đoán vô tội: Một người bắt đầu được suy đoán vô tội kể từ khi cơ quan buộc tội có hành động cáo buộc họ thực hiện một hành vi bị luật hình sự trừng phạt; suy đoán vô tội kết thúc khi người đó được chứng minh là phạm tội tại một phiên tòa xét xử công khai.

Nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều quốc gia trên thế giới coi là nguyên tắc cơ bản trong TTHS. Ở nước Anh và xứ Wales, ngoài án lệ, các đạo luật do Hạ Nghị viện ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương ban hành trên cơ sở ủy quyền của Hạ Nghị viện, thì Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản có thể được coi là một bộ phận cấu thành pháp luật TTHS Vương quốc Anh. Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Công ước Châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản năm 1950: “Người bị cáo buộc phạm tội hình sự được coi là vô tội cho đến khi tội lỗi của người đó được chứng minh theo quy định của pháp luật”.

Ở Pháp, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 (Điều 9): “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội”. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) nước Cộng hòa Pháp cũng quy định: “Tất cả những người bị nghi ngờ hoặc bị truy tố đều được coi là vô tội nếu tội trạng của họ chưa được chứng minh”.

Ở Hoa Kỳ, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận tại Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: “Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể”.

Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Hiến pháp và BLTTHS năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2021. Cụ thể: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội của người đó được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật; 2. Người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh sự buộc tội và bác bỏ những luận cứ bào chữa của người bị tình nghi phạm tội hoặc người bị buộc tội thuộc về bên buộc tội; 3. Mọi nghi ngờ về tội của người bị buộc tội, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị buộc tội; 4. Bản án buộc tội không được dựa trên cơ sở những phán đoán”.

Ở Trung Quốc, các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được quy định trong Chương 1: Nhiệm vụ và những nguyên tắc cơ bản. Trong chương này, các điều luật không nêu tên gọi của các nguyên tắc mà chỉ thể hiện nội dung của các nguyên tắc đó. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo pháp luật nước này được quy định: “Không ai bị coi là có tội, nếu chưa bị Tòa án nhân dân kết án theo quy định của pháp luật”.

Do hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau, lịch sử, phong tục tập quán, tư duy pháp lý, trình độ lập pháp cũng không giống nhau, nên nội dung, hình thức nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS của mỗi quốc gia cũng khác nhau, mặc dù vẫn có những nét tương đồng. Tuy nhiên có thể khẳng định, ở các mức độ khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp), các quốc gia tiên tiến trên thế giới đều ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội với nội dung chính là: Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật. Thậm chí ở một số quốc gia nguyên tắc suy đoán vô tội còn được coi là một trong những nguyên tắc mang tính chất hiến định.

2. Nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Từ Hiến pháp năm 1992, BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đến các văn bản quy phạm pháp luật khác đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận những quy định liên quan đến suy đoán vô tội. Giai đoạn hiện nay, khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách rõ ràng hơn về nguyên tắc này, theo đó: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Trên cơ sở Hiến pháp, BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) là Bộ luật đầu tiên của Việt Nam chính thức quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” (Điều 13).

So với quy định của một số quốc gia trên thế giới, nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam có thể coi là tương đối đầy đủ, toàn diện. Bởi Điều 13 BLTTHS năm 2015 Việt Nam quy định rất rõ ràng hai nội dung chính đối với nguyên tắc suy đoán vô tội. Còn ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ hay Trung Quốc, nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội đều được quy định theo tinh thần Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Điều này đã tương đồng với nội dung đầu tiên của nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Liên quan đến suy đoán vô tội, BLTTHS Việt Nam hiện hành cũng quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” (Điều 15); hay như: “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26); “Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự” (Điều 108); bên cạnh đó, pháp luật TTHS cũng quy định: Người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (các điều 58, 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015); lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội (Điều 98 BLTTHS năm 2015) ...

Từ các quy định của pháp luật TTHS, có thể thấy:

Thứ nhất, nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Để có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trước đó vụ án hình sự cần phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Nghĩa là, vụ án hình sự này phải trải qua quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử luật định. Một người dù có bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố bị can, bị tạm giam, bị đưa ra xét xử, nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì vẫn chưa phải là người có tội. Họ mới chỉ là người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội. Việc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội cần phải được thực hiện từ các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử). Trong các giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng một mặt phải đối xử với họ như người không có tội, không được định kiến, thiên lệch khi giải quyết vụ án. Mọi quyền con người của người bị buộc tội phải được tôn trọng ngay cả khi bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế. Thậm chí, trường hợp có người nhận tội, thành khẩn khai báo, vận dụng nguyên tắc này cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn phải suy đoán họ không có tội, đối xử với họ như người vô tội. Mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác.

Thứ hai, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Trong TTHS chỉ có hai kết quả hoặc có tội hoặc không có tội mà không thể có kết quả thứ ba là vừa có tội vừa không có tội. Nói cách khác, trong TTHS không chứng minh được “có tội” thì phải khẳng định là “không có tội”. Để buộc tội, kết tội một người theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, cơ quan tiến hành tố tụng phải có đủ chứng cứ, tài liệu để chứng minh hành vi của người đó xảy ra trên thực tế thỏa mãn một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự. Những chứng cứ, tài liệu này cần làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong một vụ án hình sự cụ thể. Ngược lại, khi không đủ chứng cứ để xác định căn cứ buộc tội, kết tội thì việc không có tội được chứng minh. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Theo một cách logic, nội dung này của nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu rằng, nếu không có đầy đủ căn cứ để chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định thì mọi sự nghi ngờ đối với người bị buộc tội đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Rõ ràng, đây là một nội dung quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, tạo ra “lá chắn” hữu hiệu cho sự an toàn pháp lý của người bị buộc tội.

Như vậy, có thể thấy rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với thái độ của xã hội, của Nhà nước trong quan hệ đối với cá nhân, trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nguyên tắc này đảm bảo cho việc chứng minh tội phạm được chính xác và khách quan, từ đó bảo vệ công lý, công bằng, bảo đảm quyền con người trong TTHS. Bên cạnh đó, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHS; tạo ra một hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự công bằng, khách quan. Nguyên tắc suy đoán vô tội còn thể hiện tính nhân đạo trong TTHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội với vị thế là bên yếu hơn trong quan hệ với Nhà nước cùng bộ máy điều tra, truy tố, xét xử hùng mạnh được thực hiện bằng quyền lực nhà nước.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội

Từ thực tiễn thi hành BLTTHS cho thấy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, trong đó có các quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội. Việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ giúp cho việc chứng minh tội phạm được chính xác, khách quan và hiệu quả mà còn góp phần “hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân”. Theo tác giả, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS hiện hành có liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội cần tập trung một số nội dung sau đây:

Một là, về chủ thể được suy đoán vô tội:

Nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam đã chỉ rõ đối tượng nhận được sự suy đoán vô tội - người bị buộc tội. Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 4 BLTTHS năm 2015). So với quy định của một số quốc gia khác, việc chỉ rõ đối tượng được suy đoán vô tội đã góp phần thể hiện được bản chất của nguyên tắc này. Người được suy đoán vô tội là những người bị buộc tội, cá nhân không bị buộc tội, không vi phạm pháp luật hình sự, thì họ không cần được suy đoán vô tội. Tuy nhiên, theo tác giả, nguyên tắc suy đoán vô tội cần được thể hiện sớm hơn trong tiến trình tố tụng, từ khi họ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác hay người bị kiến nghị khởi tố. Bởi lẽ, khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng đã được xác lập với tư cách là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, họ đã phải cung cấp lời khai ngay cho cơ quan có thẩm quyền, trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (Điều 58 BLTTHS năm 2015). Bên cạnh đó, điểm c khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan” thì có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn giải. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế cũng đã phát sinh quan hệ pháp hệ pháp luật TTHS giữa cơ quan tiến hành tố tụng và người bị áp dụng. Trường hợp này người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đang dần trở thành người bị nghi thực hiện tội phạm hoặc là có liên quan đến hành vi phạm tội. Do vậy, trên phương diện chứng minh họ cũng cần được suy đoán vô tội, còn trên phương diện đối xử họ càng cần được đối xử như người không có tội.

Hai là, nguyên tắc suy đoán vô tội cần bổ sung nội dung: Bản án kết tội phải căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình tố tụng và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Xuất phát từ chính quy định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS hiện hành quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người vô tội. Theo khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, việc Tòa án ra bản án kết tội cần phải dựa vào các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng. Nói cách khác, mọi phán đoán chủ quan và vô căn cứ không thể là cơ sở để Tòa án ra bản án kết tội. Do vậy, để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định một cách đầy đủ, chặt chẽ, logic, giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dễ dàng trong việc áp dụng nguyên tắc này, Điều 13 BLTTHS năm 2015 cần được bổ sung nội dung: Bản án kết tội phải căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình tố tụng và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Quy định như trên không những hoàn toàn phù hợp với nội dung Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, mà còn góp phần làm cho nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật TTHS Việt Nam trở nên đầy đủ, chặt chẽ hơn, giúp cho nguyên tắc suy đoán vô tội dễ dàng được thực thi trên thực tế. Điều này cũng hoàn toàn tương đồng với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về nguyên tắc suy đoán vô tội.

Ba là, về “quyền im lặng” theo nguyên tắc suy đoán vô tội:

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (các điều 58, 59, 60, 61). Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội (Điều 98). Đây cũng là một trong những quy định giúp cho nguyên tắc suy đoán vô tội được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 466 Bộ luật này thì: Người bị buộc tội có thể bị xử lý về hành vi từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật. Có thể thấy, hai quy định này chưa có sự thống nhất với nhau. Theo các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội từ chối khai báo. Ngược lại, trong trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thì lại được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy, theo tác giả, để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội được thực thi theo quy định của Hiến pháp và BLTTHS năm 2015, cần bỏ quy định tại khoản 3 Điều 466 BLTTHS năm 2015.

Việc quy định người bị buộc tội có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội cho thấy pháp luật TTHS Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong đảm bảo quyền con người, quyền của người bị tình nghi phạm tội theo tinh thần Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, theo đó “người bị buộc tội có quyền im lặng”. Tuy nhiên, hiện nay tại một số quốc gia có mô hình tố tụng tranh tụng thì quyền này cũng không phải là tuyệt đối mà nó bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định như phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng, giết người, khủng bố hoặc nhằm đảm bảo an toàn cho cộng đồng, xã hội... Quy định như BLTTHS năm 2015 được hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền không khai báo nếu họ cho rằng lời khai đó chống lại mình là không đúng với bản chất của “quyền im lặng” và thực tiễn vận dụng trên thế giới hiện nay. Thực tế cho thấy, các đối tượng lợi dụng quy định này để từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật, gây khó khăn cho hoạt động chứng minh xác định sự thật của vụ án. Thực tế này có thể dẫn đến bỏ sót, bỏ lọt tội phạm, hiệu quả chứng minh bị giảm sút, người thực hiện tội phạm không bị trừng trị thích đáng, sẽ tiếp tục là mối lo đe dọa cho xã hội. Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có nghĩa vụ tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng... Do vậy, theo tác giả, cần nghiên cứu, bổ sung quy định về nghĩa vụ khai báo của người bị buộc tội theo hướng người bị buộc tội không bắt buộc phải đưa ra lời khai bất lợi cho mình, nhưng phải có nghĩa vụ khai báo trung thực, đầy đủ, khách quan các tình tiết liên quan đến vụ án.

Ngoài ra, trường hợp người phạm tội không khai báo, không cung cấp tài liệu, đồ vật cho thấy sự ngoan cố, coi thường pháp luật. Để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cần nghiên cứu, xem xét bổ sung nội dung: Người phạm tội từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án là một trong những căn cứ để không xét giảm mức hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ở đây cần phân biệt “người phạm tội” và “người bị buộc tội”. Thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm và trên thực tế đã có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Còn “người bị buộc tội” gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, là những người mới chỉ bị nghi thực hiện hành vi phạm tội, mới là những người được suy đoán vô tội. Do vậy, việc quy định người phạm tội từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án là một trong những căn cứ để không xét giảm mức hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn khi thi hành án không ảnh hưởng đến nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS.

Bốn là, khoản 2 Điều 421 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự”. Theo quy định trên, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chỉ tham dự buổi ghi lời khai như là người chứng kiến các hoạt động tố tụng của cơ quan chức năng. Nếu họ được phối hợp với Điều tra viên tham gia tác động tâm lý động viên tinh thần, đặt câu hỏi sẽ giúp bị hại là người chưa thành niên giảm bớt căng thẳng, từ đó có thể trả lời đúng đắn các câu hỏi của cơ quan tố tụng. Việc chưa quy định cụ thể vấn đề này sẽ dễ dẫn đến việc ghi lời khai của người bị hại trở nên khó khăn hơn, ảnh hưởng đến việc thực hiện suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội. Do đó, để đảm bảo hiệu quả buổi làm việc của cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội, cần nghiên cứu, bổ sung quy định người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được tham gia hỏi về những tình tiết của vụ án tại khoản 2 Điều 421 theo hướng lấy lời khai người bị hại, người làm chứng phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự. Người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được hỏi người bị hại, người làm chứng nếu được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý.

Năm là, theo điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015: “Người bào chữa có quyền: Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”. Tuy nhiên, việc hỏi bị can của người bào chữa trong trường hợp này chưa có quy định về nội dung hỏi, trình tự, thủ tục hỏi và thời điểm thực hiện việc hỏi bị can. Khi việc hỏi cung kết thúc cũng có nghĩa là các thủ tục của cuộc hỏi cung đã thực hiện xong bao gồm cả lập biên bản thì việc hỏi của người bào chữa cũng cần quy định rõ về thời gian, địa điểm tiến hành, trình tự, thủ tục, nội dung, mục đích của việc hỏi trong trường hợp này để ghi nhận kết quả, giá trị pháp lý của việc hỏi bị can của người bào chữa. Việc làm này cũng giúp quá trình chứng minh vụ án diễn ra khách quan, đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS, đặc biệt là ở giai đoạn điều tra vụ án.

Bên cạnh đó, BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể việc thông báo cho người bào chữa và sự tham gia của người bào chữa khi hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội trong trường hợp một bị can có nhiều người bào chữa. Việc thông báo cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can hiện nay được quy định tại Điều 79 BLTTHS và Điều 11 Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an nhưng chưa cụ thể. Theo các quy định này thì việc thông báo cho người bào chữa có thể thực hiện bằng văn bản, email, điện thoại, vì vậy để xác nhận, có chứng cứ lưu lại việc thông báo chưa được thống nhất. Ngoài ra, khi có sự tham gia của nhiều người bào chữa trong một buổi hỏi cung bị can nếu không quy định, hướng dẫn cụ thể sẽ có thể gây ảnh hưởng, làm mất thời gian buổi hỏi cung.

Nguyễn Hữu Quyền

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi

(Kiemsat.vn) - Bài viết nghiên cứu những hạn chế, bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện quy định về Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi, góp phần phòng, ngừa vi phạm của người sử dụng lao động và bảo vệ người lao động dưới 16 tuổi.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang