Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự xã hội

13/09/2022 08:00

(kiemsat.vn)
Trong phần 1 của bài viết, Ths. Trần Đình Hải đã phân tích những đặc điểm chủ yếu hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự xã hội; trong phần này, tác giả đi sâu vào phân tích những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn hoạt động ảnh hưởng tới chất lượng công tác THQCT, KSĐT các vụ án xâm phạm trật tự xã hội.

2. Một số tồn tại, hạn chế ảnh hưởng tới chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự xã hội

Trong những năm qua, về cơ bản Viện kiểm sát các cấp đã bảo đảm việc giải quyết các vụ án xâm phạm TTXH đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đã có những chuyển biến tích cực cả về nội dung và phương pháp tiến hành, cơ bản bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu đã đạt được, công tác này còn một số tồn tại, hạn chế sau đây:

* Trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm:

- Một số địa phương còn chưa kịp thời đôn đốc để xảy ra nhiều trường hợp sau khi thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm, Cơ quan điều tra chậm hoặc không chuyển đầy đủ Quyết định phân công, hoặc không thông báo đầy đủ tình hình và kết quả tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo cho Viện kiểm sát.

- Công tác nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm ở một số Viện kiểm sát còn thụ động, chưa kịp thời, lúng túng về phương pháp. Chưa có biện pháp để nắm đầy đủ số tố giác, tin báo về tội phạm và theo sát việc thụ lý, giải quyết của Cơ quan điều tra để kịp thời yêu cầu giải quyết tố giác, tin báo đúng hạn. Việc khai thác thông tin về tội phạm qua các hoạt động kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam, trên phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế.

- Chất lượng một số bản yêu cầu xác minh chưa cao, ban hành chưa kịp thời, việc nghiên cứu hồ sơ trao đổi quan điểm của Kiểm sát viên còn chậm ảnh hưởng đến việc giải quyết tố giác, tin báo. Vẫn còn tình trạng chậm thực hiện yêu cầu xác minh nên phải gia hạn xác minh tin báo.

- Chất lượng trực tiếp kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm còn hạn chế như: chưa phát hiện được đầy đủ các vi phạm để kiến nghị, yêu cầu khắc phục; việc phối  hợp phân loại xử lý tố giác, tin báo về tội phạm mới chỉ tập trung ở Cơ quan điều tra, các ngành khác còn đơn thuần là cung cấp số liệu định kỳ; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức với Viện kiểm sát trong việc cung cấp thông tin về tố giác, tin báo tội phạm chưa hiệu quả, còn hình thức.

- Việc phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra chưa chặt chẽ, dẫn đến vi phạm như để quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, chậm chuyển thông báo về việc tiếp nhận, hồ sơ và tài liệu ban đầu, việc phục hồi về nguồn tin tội phạm; chậm thực hiện việc hủy các quyết định tố tụng hoặc bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát…

- Vẫn còn trường hợp cơ quan điều tra phân loại đơn không đúng nên đã đưa các tranh chấp dân sự vào thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo Thông tư 01/2017, nhất là các loại đơn có nội dung về vay mượn tiền...

- Các cơ quan như công an xã, phường, thị trấn, đội cảnh sát giao thông tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm nhưng không chuyển cho cơ quan điều tra kịp thời gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát ngay từ đầu.

- Việc phát hiện vi phạm để kiến nghị, yêu cầu khắc phục khi kiểm sát trực tiếp chưa nhiều. Một số trường hợp, Viện kiểm sát đã phát hiện vi phạm, có kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm nhưng thiếu kiên quyết, việc rút kinh nghiệm chưa kịp thời hoặc chỉ nhắc nhở tại các cuộc họp liên ngành nên chưa đạt hiệu quả cao.

* Trong giai đoạn điều tra:

- Một số địa phương còn thụ động, chưa thể hiện vai trò quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Có trường hợp còn để CQĐT khởi tố, điều tra sau đó thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định hủy bỏ hoặc đình chỉ vụ án do không có tội phạm xảy ra hoặc bị can không thực hiện hành vi phạm tội.

- Số vụ tạm đình chỉ điều tra do chưa xác định được đối tượng gây án và do bị can trốn còn chiếm tỷ lệ đáng kể nhưng Viện kiểm sát chưa tích cực đôn đốc CQĐT phát hiện đối tượng phạm tội, truy bắt để phục hồi điều tra, xử lý. Số vụ đình chỉ điều tra còn nhiều, trong đó đáng lưu ý số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra.

- Trách nhiệm trong phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, tạm giam nhiều địa phương còn chưa cao, chưa đi sâu xem xét hồ sơ chứng cứ, hiện trường; còn chủ quan dựa vào hồ sơ của CQĐT, việc kiểm tra đánh giá chứng cứ không đầy đủ; còn trường hợp Viện kiểm sát chưa chủ động và trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để xác minh, kiểm tra chứng cứ.

- Tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung tuy từng bước đã được hạn chế nhưng hàng năm vẫn còn số lượng đáng kể với lý do chủ yếu là thiếu chứng cứ quan trọng (như chưa xác định được hành vi, vai trò của người thực hiện tội phạm; động cơ gây án của bị can; căn cứ quy kết trách nhiệm hình sự của bị can; chưa thu giữ được vật chứng quan trọng của vụ án; để lọt tội phạm, lọt hành vi phạm tội; khởi tố sai tội danh).

- Đường lối xử lý vụ án còn có hiện tượng chưa nhất quán, chưa đáp ứng yêu cầu.  Có nơi còn có khuynh hướng nặng về trừng trị để phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Vẫn còn tình trạng cùng một tội phạm với tính chất và mức độ như nhau, có nơi thì khởi tố, truy tố, có nơi kia lại không (hành vi sử dụng bằng lái xe giả có nơi thì xử lý hình sự, có nơi lại không; hay hành vi sử dụng bằng cấp giả trong các cơ quan, tổ chức lại không được xem xét để xử lý về hình sự). Có những vụ việc do không nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, thiếu đi sâu làm rõ mục đích và động cơ phạm tội, đã khởi tố, điều tra theo tội danh không chính xác. Bên cạnh đó, còn tình trạng áp dụng pháp luật máy móc, chưa phù hợp với chuyển biến của tình hình kinh tế-xã hội và những thay đổi về chính sách pháp luật. Nhiều vụ việc còn bị ảnh hưởng bởi  sức ép của dư luận, chưa chú trọng đi sâu làm rõ bản chất, nội dung. Ngoài ra, các tội xâm phạm trật tự trị an xảy ra nhiều, nhưng tỷ lệ phát hiện, khởi tố, điều tra chưa phản ánh đúng tình trạng phạm tội. Nhiều địa phương mới chú ý giải quyết các trọng án như giết người và các vụ tai nạn giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm chết và bị thương nhiều người. Loại tội xâm phạm trật tự, trị an như cờ bạc, mại dâm, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản... xảy ra nhiều nhưng tỷ lệ phát hiện để xử lý hình sự còn thấp. Có nơi ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tình trạng tảo hôn, mua bán người diễn ra nhiều nhưng chưa được Viện kiểm sát kịp thời yêu cầu khởi tố, điều tra để răn đe, giáo dục phòng ngừa. Có những trường hợp còn áp dụng pháp luật không chính xác liên quan đến thỏa thuận giữa bị hại và người phạm tội trong các vụ án cố ý gây thương tích, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc các vụ án ít nghiêm trọng khác.

- Tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra có trường hợp nghiêm trọng; điều tra còn để kéo dài do trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần giữa các cơ quan tố tụng; lạm dụng khoản 3, Điều 29 của BLHS về miễn trách nhiệm hình sự để đình chỉ điều tra. Trong khi đó hoạt động kiểm sát điều tra ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát hiện vi phạm có tính thủ tục, chưa đi sâu làm rõ bản chất vi phạm pháp luật đó ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, toàn diện của vụ án để kiến nghị CQĐT có biện pháp xử lý.

- Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra ở một số địa phương phối hợp chưa thường xuyên, chặt chẽ dẫn đến việc nắm thông tin của Viện kiểm sát không kịp thời, đầy đủ, từ đó làm cho hiệu quả công tác kiểm sát chưa cao. Nhiều vụ việc không được phân loại, thụ lý hoặc việc ra quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không đảm bảo căn cứ, phải hủy Quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Còn để xảy ra việc tin báo, tố giác bị kéo dài thời hạn, phải gia hạn thời hạn giải quyết tin báo không cần thiết. Nhiều trường hợp tố giác, tin báo phức tạp, hết hạn, có vướng mắc về quan điểm xử lý nhưng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không kịp thời trao đổi, thống nhất để giải quyết dứt điểm theo quy định của pháp luật.

Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó, có cả nguyên nhân từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật làm ảnh hưởng tới chất lượng công tác THQCT, kiểm sát điều tra. Cụ thể:

* Về pháp luật hình sự:

- Một số tình tiết định khung tăng nặng chưa được hướng dẫn, giải thích hoặc quy định chung chung như: “phạm tội có tính chất côn đồ”, “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”...đặc biệt gây khó khăn trong áp dụng với các trường hợp là ranh giới giữa xử lý hành chính và hình sự (tội cố ý gây thương tích, vô ý gây thương tích…); Dấu hiệu pháp lý chưa rõ để phân biệt và xác định đúng tội danh như giữa tội “giết người” với “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “giết người” trong trường hợp chưa đạt với tội “cố ý gây thương tích”, tội “giết người” trong trường hợp hoàn thành” với tội “cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người”; tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản; nhận biết dấu hiệu gian dối, bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản trong các tội: lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) với sử dụng phương tiện điện tử, mạng viễn thông thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290)…

- Chưa có hướng dẫn cụ thể hoặc chưa có hướng dẫn mới về áp dụng một số tình tiết quy định trong BLHS nên giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng hoặc giữa các địa phương có nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất. Bên cạnh đó một số trường hợp do công văn hướng dẫn áp dụng luật đã hết hiệu lực nên việc trích dẫn theo các văn bản này là chưa phù hợp, điển hình là các quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, “người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án”, “có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh”,“có tính chất côn đồ”, “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”...

- Một số án lệ về tội phạm xâm phạm TTXH đã được ban hành nhưng tính pháp lý còn chưa thực sự rõ ràng (mới dừng lại ở mức độ tham khảo), thậm chí có án lệ còn chưa có nhận thức thống nhất hoặc sự đồng tình cao.

* Về pháp luật tố tụng hình sự:

- Điều 78 chỉ quy định trình tự thủ tục đăng ký bào chữa cho người bào chữa mà chưa có quy định trình tự thủ tục đăng ký cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố.

- Khoản 1 Điều 147 quy định thời hạn giải quyết tin báo còn chung chung, dẫn đến việc áp dụng khác nhau, có đơn vị tính thời hạn 20 ngày từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (ngày được ghi trong biên bản mà Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo). Có đơn vị tính từ khi Cơ quan Cảnh sát điều tra phân loại, vào sổ thụ lý và có quyết định phân công Phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra và phân công ĐTV vì cho rằng đối với các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có tổ chức khám nghiệm hiện trường hoặc các vụ việc đơn thư, tố cáo, tin báo của công dân, của cơ quan tổ chức... phải cần thời gian xác minh, phân loại.

- Điều 148 quy định trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố khi “đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án” (điểm b, khoản 1). Tuy nhiên trong thực tế, nhiều trường hợp khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm Cơ quan điều tra không thực hiện được việc gặp và yêu cầu cung cấp tài liệu, đồ vật do người bị tố giác hoặc người có liên quan không có mặt ở địa phương. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để tạm đình chỉ trong trường hợp này.

- Điều 150 quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, Điều 150 năm 2015 và Điều 12 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (TTLT số 01/2021) chưa quy định cụ thể thời hạn Viện kiểm sát phải giải quyết tranh chấp về thẩm quyền.

- Theo khoản 3 Điều 146 và quy định của TTLT số 01/2017, TTTL số 01/2021 (sửa đổi TTLT 01/2017) Công an cấp xã có thẩm quyền kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm, sau đó chuyển đến Cơ quan điều tra… Tuy nhiên, hiện nay việc phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát địa phương trong thực hiện quy định của TTLT số 01/2021 về hướng dẫn hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm của Công an cấp xã còn chưa được thực hiện kịp thời.

- Thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố phát sinh trường hợp khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Cơ quan điều tra thụ lý thành nhiều tố giác, tin báo độc lập, qua quá trình kiểm tra, xác minh xác định các vụ việc trên diễn ra cùng một khoảng thời gian, địa điểm, do một hoặc một nhóm đối tượng cùng gây ra. Do đó, để giải quyết vụ việc một cách khách quan, đúng quy định pháp luật thì cần phải nhập các tố giác, tin báo tội phạm này thành một. Tuy nhiên, BLTTHS và TTLT 01/2017 chưa có quy định về nhập tố giác, tin báo tội phạm nên chưa có căn cứ để nhập tố giác, tin báo tội phạm .

- Theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (TTLT số 04/2018) của Liên ngành trung ương thì trường hợp xét thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự chưa đủ căn cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung làm rõ. Tuy nhiên, luật chưa quy định về thời hạn Cơ quan điều tra phải bổ sung.

- Khoản 2 Điều 172 về gia hạn điều tra còn bất cập, trong đó thời hạn gia hạn tạm giam ngắn hơn so với thời hạn gia hạn điều tra vụ án, trong khi đó Điều 125 chỉ quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong 04 trường hợp hoặc “khi thấy không còn cần thiết” hoặc “có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác”. Điều này gây lúng túng cho các Viện kiểm sát trong trường hợp vụ án phức tạp hết thời hạn tạm giam bị can mà thời hạn điều tra vụ án vẫn còn, thậm chí một số vụ án mặc dù chưa hết thời hạn điều tra nhưng thời hạn tạm giam đã hết nên xảy ra tình trạng “làm cố” để kết thúc điều tra, hoặc kết thúc điều tra xong Viện kiểm sát buộc phải trả điều tra bổ sung để đảm bảo thời hạn theo tố tụng.

- Chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện việc dẫn giải bị hại trong trường hợp bị hại từ chối giám định theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 127; người bị tố giác cố tình không có mặt theo giấy mời; thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định tại Điều 57 BLTTHS; Chưa có quy định về về nhận dạng, đối chất trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm... nên Cơ quan điều tra còn lúng túng, khó khăn trong quá trình áp dụng, thực hiện.

- Hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng rất nhiều và đa dạng, như: Báo và các trang tin điện tử trên Internet, Đài phát thanh, Đài truyền hình.…, nhưng chưa có hướng dẫn thống nhất về biện pháp thực hiện, quy trình tiếp nhận, cần tập trung theo dõi các phương tiện thông tin đại chúng nào. Do chưa có hướng dẫn, nên nhận thức chưa thống nhất, dẫn đến việc tổ chức tiếp nhận đầy đủ các tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng gặp không ít khó khăn.

- Các quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung tại điểm m khoản 2 Điều 41, điểm b khoản 2 Điều 45, khoản 2 Điều 174, khoản 5 Điều 236, Điều 245, Điều 246, Điều 280 BLTTHS; Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT - VKSNDTC - TANDTC - BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện KSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung chưa quy định trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung để nhập vào vụ án khác nên khó khăn trên thực tế giải quyết vụ án.

- Về thủ tục tương trợ tư pháp trong xác minh lý lịch bị can hầu như không nhận được phản hồi từ các quốc gia, vùng lãnh thổ được yêu cầu, dẫn đến thời gian giải quyết vụ án phải kéo dài, gia hạn nhiều lần. Đặc biệt đối với các trường hợp nếu hành vi của bị ban bị truy cứu theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Viện kiểm sát rất lúng túng nếu không có phản hồi về xác minh lý lịch tư pháp của quốc gia, vùng lãnh thổ mà bị cáo mang quốc tịch.

- Về hệ thống biểu mẫu, theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 Mẫu văn bản tố tụng thực hành quyền công tố điều tra và truy tố của Viện KSND tối cao hiện chưa đầy đủ: Không có biểu mẫu Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; mẫu thông báo thống nhất không khởi tố vụ án hình sự, mẫu Quyết định đình chỉ bị can (đối với vụ án chỉ có một bị can) …

- Quy định của pháp luật chưa rõ ràng nhưng lại chậm có văn bản hướng dẫn, nên nhận thức chưa được thống nhất giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp và Cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên, là một trong những nguyên nhân dẫn đến án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cấp phúc thẩm hủy án để giải quyết lại. Các hướng dẫn, giải đáp, vướng mắc của Viện KSND tối cao là văn bản nội bộ của Ngành, không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên dẫn đến một số trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không xem là cơ sở pháp lý để giải quyết vụ việc.

- Theo quy định Điều 206 BLTTHS năm 2015 thì dữ liệu điện tử không thuộc trường hợp bắt buộc phải giám định, điều này dẫn đến việc giám định hay không lại phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó có những vấn đề liên quan đến dữ liệu điện tử bằng mắt thường, trực quan không thể xác định được chính xác. Đồng thời, hiện tại BLTTHS chỉ có quy định về việc “thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử” (Điều 107), còn việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ điện tử không có quy định riêng mà được thực hiện theo quy định chung về kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại Điều 108. Như vậy, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ điện tử phụ thuộc vào năng lực, trình độ của người trực tiếp thực hiện. Điều này sẽ gây ra những ảnh hưởng cho quá trình xử lý vụ án hình sự nói chung.

- Pháp luật chưa quy định cụ thể chế tài xử lý vi phạm trong trường hợp không thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm luật định trong phối hợp. Điều này phần nào dẫn đến Viện kiểm sát chưa tham gia được sâu vào quá trình điều tra vụ án, làm giảm vai trò công tố trong hoạt động điều tra hoặc có phối hợp thực hiện nhưng còn chậm, kéo dài... đặc biệt trong hoạt động trưng cầu định giá tài sản, giám định thương tích... làm ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

- Quy định của pháp luật về phối hợp giữa hoạt động tiến hành tố tụng với các hoạt động bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập như: quy định việc cung cấp giấy chứng nhận thương tích ban đầu giữa những đơn vị tiếp nhận người bị hại (các vụ giết người, cố ý gây thương tích) không đồng nhất, mâu thuẫn. Hoạt động định giá tài sản (như cây cảnh, đồ gỗ,...) cũng chưa quy định rõ ràng nên cơ quan giám định còn lúng túng dẫn đến kéo dài thời hạn hoặc kết quả giám định chưa phù hợp dẫn đến việc khắc phục gặp nhiều khó khăn, hoặc có những vụ phải giám định nhiều lần ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ giải quyết các vụ án.

(còn tiếp)

Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự xã hội

(Kiemsat.vn) - Trong bài viết này, Ths. Trần Đình Hải nêu ra những đặc điểm chủ yếu; phân tích những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn và đề xuất một số định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự xã hội.

Infographic: Quy định về định danh và xác thực điện tử

(Kiemsat.vn) - Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Nghị định số 59/2022/NĐ-CP quy định về định danh và xác thực điện tử. Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam liên quan đến định danh và xác thực điện tử; có hiệu lực thi hành từ ngày 20/10/2022.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang