Miễn trách nhiệm hình sự trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát

25/01/2025 22:03

(kiemsat.vn)
Bài viết phân tích cơ sở và biểu hiện của mối quan hệ giữa miễn trách nhiệm hình sự với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, đồng thời đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.

Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý được đặt ra với hành vi phạm tội và là hậu quả mà chủ thể phải gánh chịu trước Nhà nước khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, những nhận thức mới về trách nhiệm hình sự (TNHS) cho rằng, hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm không chỉ thể hiện ở trách nhiệm cuối cùng của người người phạm tội trước Nhà nước (bị kết tội bằng bản án, bị tuyên hình phạt và phải mang án tích) mà còn được thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS. Nói cách khác, chịu TNHS là phải chịu tất cả các hậu quả cho việc phạm tội mang lại và “TNHS (có khả năng) phát sinh ngay từ khi tội phạm được thực hiện và (sẽ) chấm dứt khi người phạm tội đã được xoá án tích”.

Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015), các căn cứ miễn TNHS được quy định trong cả Phần chung và Phần các tội phạm.

Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) thì chỉ các căn cứ miễn TNHS tại phần chung của BLHS mới được viện dẫn để Viện kiểm sát chấm dứt các hoạt động thực hiện chức năng buộc tội thông qua quyết định đình chỉ vụ án và rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa (Điều 248, Điều 285 BLTTHS năm 2015). Với các trường hợp miễn TNHS không cho phép tuỳ nghi, Viện kiểm sát bắt buộc phải đình chỉ vụ án, tuyên miễn TNHS đối với bị can. Với trường hợp cho phép tuỳ nghi “có thể”, Viện kiểm sát được lựa chọn miễn hoặc không miễn TNHS đối với bị can, từ đó được lựa chọn đình chỉ hoặc không đình chỉ vụ án. Do Viện kiểm sát có thể quyết định việc đình chỉ hoặc không đình chỉ vụ án như trên nên việc đình chỉ vụ án theo các căn cứ miễn TNHS là hình thức biểu hiện của việc quyết định có buộc tội hay không buộc tội với bị can nữa. Điều này cũng xảy ra tương tự với việc Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.

Buộc tội là một trong những chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014 quy định về chức năng buộc tội của Viện kiểm sát thông qua hoạt động thực hành quyền công tố. Quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, do đó, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.

Ở nước ta, quyền công tố được giao cho Viện kiểm sát. Đây là một trong những quyền hiến định. Thực chất, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, đề xuất kiến nghị khởi tố và trong suốt quy trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014).

Miễn trách nhiệm hình sự trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát

Thứ nhất, miễn TNHS là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, một nội dung của việc thực hiện chức năng buộc tội.

Là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Việc buộc tội của Viện kiểm sát với tính chất là buộc tội của Nhà nước, buộc tội chính thức mang tính quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND và BLTTHS. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng buộc tội đối với người phạm tội, Viện kiểm sát không chỉ có nhiệm vụ áp dụng các biện pháp pháp luật để chứng minh tội phạm, người phạm tội và buộc phải chịu TNHS mà còn phải có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của họ, khi đó là quyền được hưởng chính sách nhân đạo, khoan hồng ở mức cao nhất đối với người phạm tội là miễn TNHS khi họ có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS.

Như vậy, miễn TNHS hoàn toàn không đối lập với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát mà còn là một hoạt động của chức năng buộc tội.

Thứ hai, miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát được thể hiện trong các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; có đặc thù riêng và khác với miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng điều tra của Cơ quan điều tra và trong mối quan hệ với chức năng xét xử của Tòa án cả về nội dung và hình thức thể hiện, cụ thể như sau:

- Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, khi căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015 thuộc trường hợp bắt buộc Cơ quan điều tra phải áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị can và ra quyết định đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra phải gửi quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để tiến hành kiểm tra tính có căn cứ của quyết định đình chỉ điều tra.

Đối với trường hợp miễn TNHS cho bị can theo khoản 2 và khoản 3 Điều 29, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 thì sau khi ra quyết định đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ đến Viện kiểm sát. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định kèm theo hồ sơ, Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm tra, nghiên cứu hồ sơ nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát trả hồ sơ lại cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu có đủ căn cứ truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố.

Như vậy, miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng điều tra của Cơ quan điều tra chịu sự “chế ước mạnh” của chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, thể hiện ở quyền năng pháp lý là hủy bỏ việc áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị can khi Viện kiểm sát xét thấy quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can quy định tại Điều 16, khoản 2 và khoản 3 Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 không có căn cứ và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu có đủ căn cứ truy tố thì Viện kiểm sát trực tiếp hủy quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố.

- Trong giai đoạn truy tố, miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát được thể hiện ở chỗ, khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 thì Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị can và quyết định không truy tố, đồng thời ra quyết định đình chỉ vụ án mà không bị “chế ước” bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác, chỉ chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.

- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát thể hiện ở việc Viện kiểm sát có quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và chuyển quyết định truy tố kèm theo hồ sơ vụ án đến Tòa án. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, nếu xét thấy có đủ căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 thì Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị can và được thực hiện bằng việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và làm văn bản gửi Tòa án đồng thời đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 285 BLTTHS năm 2015.

- Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Mặc dù hiện nay tại Mục V của BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, trong đó quy định chức năng buộc tội của Viện kiểm sát bằng các hoạt động như: Công bố bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày luận tội, tranh luận với bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhưng không quy định cụ thể thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị cáo mà việc áp dụng biện pháp này thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng xét xử. Việc áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị cáo được ghi nhận trong bản án. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định tại Điều 18, Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Điều 266, Điều 267 BLTTHS năm 2015 thì vấn đề miễn TNHS cho bị cáo trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát thể hiện trên các phương diện sau đây:

Một là, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị bản án của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo đề nghị áp dụng hình phạt nhưng Hội đồng xét xử quyết định bị cáo được miễn TNHS. Căn cứ vào kết quả thực hành quyền công tố (buộc tội bị cáo), kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nếu phát hiện việc áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị cáo là không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị theo trình tự thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Hai là, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử miễn TNHS cho bị cáo tại phiên tòa.

Khi được thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa, thông qua hoạt động xét hỏi, luận tội, tranh luận đối đáp nếu xác định có căn cứ để miễn TNHS cho bị cáo thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp miễn TNHS cho bị cáo. Ví dụ: Vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á. Trong quá trình tranh luận, đối đáp giữa Kiểm sát viên với bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thanh P (cựu Trưởng phòng tài chính CDC tỉnh Bình Dương) đã đề nghị Hội đồng xét xử miễn TNHS cho bị cáo này (phiên tòa xét xử phúc thẩm ngày 17/5/2024).

Như vậy, trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa, vấn đề miễn TNHS trong mối quan hệ với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật và quyền kháng nghị bản án của Tòa án và quyền đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp miễn TNHS của bị cáo.

Thứ ba, miễn TNHS dẫn đến chấm dứt các hoạt động thực hiện chức năng buộc tội của Viện kiểm sát.

Viện kiểm sát là cơ quan được Nhà nước trao quyền thực hiện chức năng buộc tội với nội dung chứng minh gồm nhiều vấn đề như: Ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm đã thực hiện là gì, những tình tiết thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, lỗi của những người đã thực hiện tội phạm, động cơ, mục đích cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quá trình đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát (bằng chức năng buộc tội của mình) có thể miễn TNHS cho người phạm tội nếu “… xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS mà vẫn bảo đảm được yêu cầu… phòng, chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội…”. Như vậy, theo nghĩa rộng, chức năng buộc tội của Viện kiểm sát là tổng thể các hoạt động chứng minh TNHS hoặc miễn TNHS đối với người phạm tội theo quy định của pháp luật nhằm giải quyết các vụ án hình sự đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Khi có căn cứ để miễn TNHS thì các hoạt động thực hiện chức năng buộc tội của Viện kiểm sát cũng đương nhiên chấm dứt. Về bản chất, trong quá trình truy cứu TNHS, Viện kiểm sát phải buộc tội đối với hành vi phạm tội của người phạm tội theo cả hai hướng: (1) Có cơ sở để buộc chủ thể phải chịu TNHS ở mức độ cụ thể; và (2) Có cơ sở để không buộc chủ thể phải chịu TNHS (miễn TNHS). Nếu có cơ sở để buộc chủ thể phải chịu TNHS ở mức độ cụ thể thì Viện kiểm sát (cùng với các cơ quan tố tụng khác) sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động nhằm xác định TNHS của chủ thể. Ngược lại, nếu có cơ sở để miễn TNHS cho chủ thể thì Viện kiểm sát sẽ “tuyên bố” rằng chủ thể không tiếp tục bị truy cứu TNHS nữa và từ thời điểm đó, chức năng buộc tội của Viện kiểm sát sẽ chấm dứt.

Thứ tư, về bản chất, quyết định đình chỉ vụ án, rút quyết định truy tố cũng là một bộ phận của hoạt động buộc tội của Viện kiểm sát. Bởi lẽ, buộc tội chính là tổng thể các hoạt động theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu TNHS đối với người bị buộc tội. Các trường hợp miễn TNHS đối với cá nhân phạm tội quy định trong BLHS là một trong những căn cứ để Viện kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án hoặc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên toà theo quy định của BLTTHS.

Một số bất cập khi áp dụng các biện pháp miễn trách nhiệm hình sự và kiến nghị hoàn thiện

Một là, trong thực tế, các cơ quan có thẩm quyền còn tâm lý e ngại áp dụng biện pháp miễn TNHS bởi nếu áp dụng không chính xác có thể dẫn tới việc vi phạm pháp luật và không đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Hai là, vấn đề áp dụng miễn TNHS trong trường hợp người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội gặp khó khăn trong việc xác định điều kiện tự nguyện, dứt khoát chấm dứt việc phạm tội mà không có gì ngăn cản với trường hợp phạm tội chưa đạt, bởi yếu tố tự nguyện chấm dứt ở đây là do chính động lực bên trong của người phạm tội thúc đẩy, không biểu hiện ra ngoài nên rất khó để xác định.

Ba là, có sự nhầm lẫn về bản chất và điều kiện để miễn TNHS với các trường hợp không phạm tội. Trong thực tiễn, có trường hợp hành vi của một người không cấu thành tội phạm hoặc không phạm tội nhưng khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ lại đưa ra căn cứ là miễn TNHS cho người phạm tội (nhằm né tránh việc bồi thường thiệt hại). Ngược lại, có trường hợp hành vi phạm tội của một người đủ điều kiện để miễn TNHS theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 nhưng các cơ quan có thẩm quyền lại ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, chuyển xử lý hành chính đối với người có vi phạm. Việc áp dụng trình tự, thủ tục nêu trên là không có căn cứ và không có tính hợp pháp vì miễn TNHS không phải là căn cứ để ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 8 Điều 157 BLTTHS năm 2015 mà là căn cứ để đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án theo quy định tại các điều 230, 248 BLTTHS.

Bốn là, trong một số trường hợp người phạm tội chỉ có tình tiết để xem xét giảm nhẹ TNHS nhưng cơ quan có thẩm quyền lại miễn TNHS cho họ theo căn cứ tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.

Năm là, một số quy định về miễn TNHS trong BLHS chưa được quy định cụ thể và chưa có hướng dẫn để thống nhất áp dụng pháp luật.

- Về miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: Hành vi của người phạm tội mặc dù đã là hành vi thuộc giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành nhưng hậu quả chưa xảy ra và người đó tự nguyện ngăn chặn hậu quả bằng các hành vi tích cực khiến hậu quả không xảy ra thì cũng có thể được miễn TNHS.

- Về miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 và miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Các quy định về miễn TNHS này lần đầu tiên được ghi nhận tại BLHS năm 2015 với một số dấu hiệu của việc “thỏa thuận miễn TNHS”. Cụ thể, khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 sử dụng cụm từ “được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự”, còn các quy định về miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đặt ra vấn đề áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục, trong đó có biện pháp hòa giải tại cộng đồng. Quy định miễn TNHS dựa trên cơ sở khi các bên tự nguyện hòa giải đã cho thấy tính thiết thực và tích cực trong quá trình áp dụng.

Sáu là, một số hướng dẫn liên quan đến chế định miễn TNHS đã hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản thay thế. Ví dụ: Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 và Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/03/1999 thì: “Khi đã miễn TNHS thì Tòa án không được quyết định bất kì loại hình phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết hậu quả tang vật”. Thực tiễn cũng cho thấy người được miễn TNHS tuy không phải chịu các hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội do mình thực hiện nhưng vẫn có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác như buộc phải bồi thường thiệt hại, xử lý bằng biện pháp hành chính... Như vậy, người được miễn TNHS có thể vẫn phải chịu các biện pháp cưỡng chế thuộc các ngành luật khác nếu phát sinh sự kiện pháp lý thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật này; Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về việc miễn TNHS đối với đồng phạm.

Bảy là, các quy định về đình chỉ vụ án và rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa của Viện kiểm sát trong BLTTHS chưa bao quát hết các trường hợp miễn TNHS trong BLHS.

Điều 248, Điều 285 BLTTHS năm 2015 chưa liệt kê hết các trường hợp miễn TNHS được quy định trong BLHS để làm căn cứ đình chỉ vụ án và rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Ngoài các trường hợp miễn TNHS tại các điều 16, 29, 91 thuộc Phần chung của BLHS còn có một số trường hợp miễn TNHS tại Phần các tội phạm (như khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390). Sự không bao quát hết các trường hợp miễn TNHS như trên sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng các trường hợp miễn TNHS tại Phần các tội phạm của BLHS. Nếu có căn cứ để miễn TNHS trong các trường hợp nêu trên thì Viện kiểm sát có thể ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc rút quyết định truy tố không? Nếu không thì văn bản tố tụng nào sẽ được ban hành để thể hiện việc không còn căn cứ tiếp tục buộc tội đối với bị can do bị can được miễn TNHS. Việc thiếu các quy định như trên thể hiện sự không thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức.

Tám là, việc quy định hình thức chấm dứt chức năng buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố bằng quyết định đình chỉ vụ án là chưa bao quát, chưa phân định được các trường hợp Viện kiểm sát lựa chọn quyết định có buộc tội hay không buộc tội với bị can.

Đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố nhằm dừng lại việc truy cứu TNHS bị can ở giai đoạn truy tố khi có một số điều kiện luật định. Xem xét các căn cứ để đình chỉ vụ án tại Điều 248 BLTTHS năm 2015 thì có thể phân loại các căn cứ này thành:

- Nhóm thứ nhất: Các căn cứ khiến việc tiếp tục buộc tội bị can không còn đủ điều kiện để thực hiện; gồm các quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 157 BLTTHS năm 2015 (không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu TNHS; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu TNHS). Nhóm căn cứ này có ý nghĩa đối với việc xác định có đủ căn cứ để truy tố bị can trước Tòa án hay không. Nếu trong giai đoạn truy tố xuất hiện các tình tiết này thì việc truy tố bị can sẽ không còn đủ căn cứ để thực hiện.

- Nhóm thứ hai: Các căn cứ khiến việc buộc tội bị can mặc dù có đủ điều kiện để thực hiện nhưng vì xét thấy việc truy cứu TNHS bị can là không còn cần thiết hoặc bản thân bị can hoặc hành vi phạm tội của họ đáp ứng một số yêu cầu luật định nên không cần tiếp tục buộc tội họ; gồm: Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 (người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án); các khoản 6, 7 Điều 157 BLTTHS năm 2015 (tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết); và các trường hợp miễn TNHS tại Điều 16, 29, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015. Nhóm căn cứ này không ảnh hưởng đến căn cứ buộc tội bị can trước Tòa án mà chủ yếu thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta. Việc đình chỉ vụ án khi có các tình tiết này không có nghĩa là chưa đủ căn cứ để buộc tội bị can trước Tòa án mà chỉ vì trong một số trường hợp đặc biệt, việc truy cứu TNHS người phạm tội và hành vi của họ là không còn cần thiết. Việc chấm dứt quá trình buộc tội vừa thể hiện được chính sách nhân đạo vừa giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giảm tải được thủ tục tố tụng đối với các vụ án này.

Việc quy định cả hai nhóm căn cứ đình chỉ vụ án như trên trong cùng một điều luật dễ dẫn đến sự đồng nhất các trường hợp không đủ điều kiện buộc tội với các trường hợp đủ điều kiện buộc tội nhưng Viện kiểm sát quyết định không tiếp tục buộc tội nữa. Pháp luật nước ta đã có nhiều thời điểm cho thấy các quy định phân biệt hai trường hợp này, trong đó trường hợp thứ nhất được gọi là “đình cứu” còn trường hợp thứ hai được gọi là “miễn tố”. Đến BLTTHS năm 1988, 2003 và 2015 thì khái niệm miễn truy tố không còn được sử dụng, mà chỉ còn có đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố với các căn cứ gồm cả nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai nêu trên. Như vậy, cách quy định này tại Điều 248 BLTTHS 2015 là chưa thể hiện sự thống nhất giữa chính các quy định của pháp luật hình thức.

Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về miễn TNHS làm căn cứ vững chắc cho việc áp dụng, theo đó: (1) Trường hợp miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, đề nghị cần có hướng dẫn áp dụng thêm trường hợp: “Nếu một người đã thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm nhưng giữa hành vi mà người đó thực hiện với hậu quả nguy hiểm cho xã hội còn có một khoảng thời gian. Trong khoảng thời gian này người ấy lại có những hành động tích cực ngăn chặn tội phạm khiến cho tội phạm không hoàn thành được” thì cũng được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và có thể được miễn TNHS; (2) Việc áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 đối với các vụ án phải được thực hiện theo đúng quy trình là sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, người vi phạm bồi thường dân sự, hai bên hòa giải, bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn TNHS, Cơ quan điều tra căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án do miễn TNHS; Viện kiểm sát căn cứ khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 ra Quyết định đình chỉ vụ án do miễn TNHS; (3) Hướng dẫn việc người phạm tội được miễn TNHS nhưng vẫn có thể phải chịu một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác; việc miễn TNHS đối với đồng phạm; việc xác định trường hợp được coi là tự thú.

Thứ hai, hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố và rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Cụ thể:

Điều 248. Đình chỉ vụ án

1. Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 và các quy định về miễn trách nhiệm hình sự khác của Bộ luật Hình sự.

Điều 285. Viện kiểm sát rút quyết định truy tố

Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 và các quy định về miễn trách nhiệm hình sự khác của Bộ luật Hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.

Thứ ba, khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 cần tiếp tục đặt ra việc nghiên cứu về vấn đề miễn truy tố (miễn tố) trong tố tụng hình sự, trong đó cần làm rõ mối quan hệ giữa miễn truy tố với các chế định có liên quan như: Miễn trách nhiệm hình sự; đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố cũng như mối quan hệ giữa miễn trách nhiệm hình sự với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát.

Tham khảo một số quốc gia và vùng lãnh thổ như Hoa Kỳ, Liên bang Đức, Hồng Kông thì ngoài những căn cứ để quyết định việc không truy cứu TNHS, không buộc tội bị can do được miễn TNHS, các nước còn có một số căn cứ khác liên quan đến tội phạm học hoặc mang tính chính trị, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và có cân nhắc đến lợi ích chung đạt được nếu không truy cứu TNHS. Tức là, nếu không tiếp tục buộc tội, không truy cứu TNHS thì sẽ thu lại được nhiều lợi ích lớn hơn là việc xét xử người phạm tội trước Tòa án. Ví dụ, tại Liên bang Đức, Cơ quan công tố có thể miễn truy tố với sự phê chuẩn của Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án, nếu xét thấy tính chất của hành vi phạm tội là ít nghiêm trọng và lợi ích của cộng đồng không đòi hỏi việc truy tố. Không cần phải có sự phê chuẩn của Tòa án đối với một tội phạm ít nghiêm trọng, không bị áp dụng hình phạt tối thiểu tăng nặng (anincreased minimum penalty) và hậu quả của tội phạm là không đáng kể (Điều 153, 153a, 153b, 153c, 153d, 153 BLTTHS Liên bang Đức). Tại Hồng Kông, Điều 5 Bộ luật về truy tố (Prosecution Code) cũng quy định rằng lợi ích công cộng (public interests) là điều kiện thứ hai mà Công tố viên phải xem xét khi quyết định việc truy tố, bên cạnh điều kiện thứ nhất là đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm (sufficiency of evidence). Như vậy, nếu vì các lợi ích công cộng (tác động của việc truy tố đối với các ưu tiên thực thi pháp luật của Hồng Kông, mức độ phổ biến của hành vi phạm tội và tác dụng răn đe của việc truy tố…), Công tố viên có thể quyết định việc không truy tố đối với người phạm tội. Còn tại Hoa Kỳ, Công tố viên được xác định là những người đại diện cho lợi ích cộng đồng, quyết định truy tố hay không truy tố là sự phản ánh lợi ích công và ý chí của số đông, của cộng đồng mà công tố viên là đại diện.

Nguyễn Văn Khoát

Những nội dung trọng tâm công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính năm 2025

(Kiemsat.vn) - VKSND tối cao ban hành Hướng dẫn số 33/HD-VKSTC ngày 30/12/2024 về công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính năm 2025.

Bàn về thừa kế thế vị khi có yếu tố con nuôi

(Kiemsat.vn) - Tranh chấp về quyền thừa kế, trong đó thừa kế thế vị tương đối phức tạp do liên quan đến nhiều mối quan hệ. Việc hiểu và áp dụng những quy định của pháp luật trong việc xác định quan hệ thừa kế và xác định người thừa kế thế vị khi có yếu tố con nuôi vẫn còn nhiều bất cập về cả lý luận và thực tiễn.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang