Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản

19/02/2019 09:17

(kiemsat.vn)
Qua thực tiễn công tác, chúng tôi trao đổi một số kinh nghiệm và những vấn đề Kiểm sát viên cần lưu ý khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiến hành một số hoạt động điều tra đối với các vụ án về tội trộm cắp tài sản.

1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường

Hiện trường vụ án trộm cắp tài sản chính là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ trộm cắp tài sản. Hiện trường có thể ở trong nhà, ngoài trời, tại cửa hàng, trên các phương tiện giao thông...

Khi tiếp cận hiện trường, Kiểm sát viên chọn vị trí thích hợp để quan sát tổng quát hiện trường, xác định các khu vực cụ thể của hiện trường, những nơi tồn tại dấu vết, vật chứng, đồ vật tại hiện trường, xem xét công tác bảo vệ hiện trường...Từ đó, phối hợp cùng Điều tra viên đánh giá hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị xáo trộn, các biện pháp cần để giữ gìn sự nguyên vẹn của dấu vết, mức độ hiểu biết của đối tượng về nơi cất giấu tài sản, khả năng truy tìm đối tượng theo dấu vết nóng, cần mở rộng hay thu hẹp phạm vi hiện trường, các phương pháp, chiến thuật khám nghiệm.

Kiểm sát chặt chẽ công tác phát hiện, ghi nhận, thu thập, bảo quản và đánh giá dấu vết, bảo đảm công tác này được thực hiện đầy đủ, kịp thời, theo đúng trình tự, thủ tục BLTTHS quy định. Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản mà tại hiện trường thường xuất hiện các loại dấu vết phổ biến sau:

- Dấu vết công cụ ở các vị trí mà đối tượng dùng công cụ để cạy, phá, cưa, đập;

- Dấu vết vân tay của đối tượng trộm cắp ở cửa ra vào và ở các đồ vật mà đối tượng cầm nắm, sờ mó, tỳ ấn;

- Dấu vết chân, giày dép của đối tượng trộm cắp trên nền nhà, vách tường, những nơi đối tượng đi lại tìm kiếm tài sản;

- Dấu vết máu của đối tượng hình thành do quá trình đối tượng đi lại đã đụng phải các vật sắc nhọn như dây thép gai, mãnh vỡ tấm kính...

- Các dấu vết khác như dấu vết lông, tóc, vải, sợi...

Nếu phát hiện có nơi tồn tại dấu vết nhưng cán bộ khám nghiệm chưa xem xét, thì Kiểm sát viên phải kịp thời yêu cầu cán bộ khám nghiệm thực hiện, bảo đảm không bỏ sót bất kỳ dấu vết gì, dù là nhỏ. 

Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường, bảo đảm biên bản phản ánh đúng thực tế công tác khám nghiệm, ghi nhận, mô tả đầy đủ các dấu vết, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia.

2. Hỏi cung bị can và kiểm sát việc hỏi cung bị can 

Trong giai đoạn điều tra vụ án trộm cắp tài sản, Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can trong các trường hợp sau: Bị can kêu oan; bị can khiếu nại hoạt động điều tra; có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật; khi có đề nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn hoặc chưa rõ; lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai của bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng và các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.

Trước khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên cần xây dựng kế hoạch hỏi cung, trong đó cần chuẩn bị kỹ chiến thuật hỏi cung đối với từng trường hợp cụ thể như: bị can kêu oan, bị can từ chối khai báo, bị can khai báo gian dối...

Việc hỏi cung bị can phạm tội trộm cắp tài sản cần làm rõ các nội dung sau đây:

- Thời gian, địa điểm, hành động cụ thể của bị can trong các giai đoạn chuẩn bị, thực hiện, tiêu thụ tài sản như: việc tìm hiểu, thăm dò nơi để tài sản, quy luật sinh hoạt, làm việc của bị hại; việc chuẩn bị công cụ phương tiện trước khi thực hiện tội phạm; vị trí đột nhập vào nơi có tài sản (đột nhập qua lỗ thông gió, qua cửa sổ); cách thức vô hiệu hóa các thiết bị bảo vệ tài sản; thủ đoạn thực hiện tội phạm (dàn dựng cảnh đụng xe,va chạm giao thông để móc túi người tham gia giao thông, giả danh người sữa chữa điện, nước, bếp ga để tiếp cận rồi lén lút chiếm đoạt tài sản); thủ đoạn che giấu hành vi trộm cắp tài sản (đeo găng tay, xóa dấu vết hoặc tạo ra các dấu vết giả); con đường thoát ra khỏi nơi có tài sản; thủ đoạn tiêu thụ tài sản trộm cắp được (tháo rời từng bộ phận của xe máy, đục lại số khung số máy, thay đổi màu sơn của xe rồi mới đem bán, bán tài sản trộm cắp thông qua những người quen biết)…

- Tài sản, đặc điểm, số lượng, giá trị tài sản bị trộm cắp, nơi cất giấu, tiêu thụ tài sản.

- Các công cụ, phương tiện bị can đã sử dụng để trộm cắp tài sản, đặc điểm, nguồn gốc, nơi cất giấu công cụ, phương tiện sau khi phạm tội.

- Bị can thực hiện vụ trộm cắp tài sản một mình hay cùng với ai; nếu vụ án có nhiều đối tượng tham gia thì cần làm rõ vị trí, vai trò của từng đối tượng trong vụ án.

- Mục đích, động cơ phạm tội của bị can là gì.

- Thái độ của bị can đối với hành vi phạm tội, việc khắc phục, bồi thường thiệt hại của bị can.  

- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can. Đặc điểm nhân thân của bị can như: tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, tiền án tiền sự; năng lực trách nhiệm hình sự của bị can. 

- Bị can biết gì về tên tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú, hoàn cảnh gia đình, quy luật làm việc, sinh hoạt… của bị hại không?

- Nguyên nhân bị can thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

- Ngoài hành vi phạm tội lần này, bị can còn thực hiện hành vi phạm tội nào khác; khai thác mở rộng về tội phạm và người phạm tội khác mà bị can biết để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn. 

Khi hỏi cung bị can phạm tội này, Kiểm sát viên lưu ý đến các tình huống phổ biến sau:

- Bị can khai báo gian dối: thường gặp ở bị can có nhiều tiền án, có kiến thức pháp luật, bị can là chủ mưu, cầm đầu trong vụ án. Tình huống này, Kiểm sát viên kiên trì giáo dục, thuyết phục bị can; sử dụng các chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá đúng lúc, đúng thời điểm, bảo đảm yếu tố bất ngờ đối với bị can; khai thác triệt để mâu thuẩn giữa các bị can trong vụ án, chỉ ra các mâu thuẩn trong lời khai của bị can, để làm bị can thay đổi thái độ khai báo; áp dụng các phương pháp hỏi cung như hỏi đứt quảng, hỏi vòng quanh, hỏi bất ngờ vào điểm yếu...

- Bị can từ chối khai báo: bị can từ chối khai báo có thể là vì bị can tin tưởng hành vi phạm tội của mình không thể bị phát hiện, bị can chờ đợi sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tình huống này, Kiểm sát viên kiên trì giải thích, thuyết phục bằng việc nêu lên đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khơi dậy phẩm chất tốt đẹp, tình cảm gia đình của bị can, kết hợp với việc sử dụng các chứng cứ đã thu thập được để buộc bị can phải khai báo. 

- Bị can khiếu nại hoạt động điều tra: Tình huống này, Kiểm sát viên yêu cầu bị can trình bày về hoạt động cụ thể mà bị can khiếu nại, các căn cứ mà bị can đưa ra, các yêu cầu của bị can, rồi thận trọng xem xét với các chứng cứ khác của vụ án để kết luận việc khiếu nại có căn cứ hay không.

- Bị can khai báo thành khẩn: thường gặp ở các bị can lần đầu phạm tội, có vai trò thứ yếu trong vụ án. Tình huống này, Kiểm sát viên có thể áp dụng các chiến thuật như cho bị can tự khai báo, hỏi thẳng, hỏi theo tuần tự. Tuy nhiên, Kiểm sát viên không vội tin lời khai của bị can mà cần thận trọng kiểm tra lời khai của bị can với các chứng cứ khác đã thu thập được như: Lời khai người làm chứng, bị hại; Kết luận giám định…

Khi kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can, Kiểm sát viên kiểm sát việc Điều tra viên thực hiện các thủ tục như kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền nghĩa vụ của bị can và người tham gia tố tụng khác, giải quyết các đề nghị của bị can; quan sát đến thái độ, để ý phương pháp hỏi cung, nội dung các câu hỏi của Điều tra viên, kịp thời đề nghị Điều tra viên khắc phục vi phạm (nếu có) và hỏi thêm các vấn đề chưa được làm rõ; quan sát hành cử chỉ, thái độ của bị can để có thông tin đánh giá sự thành thật hay gian dối trong việc khai báo.  

Trường hợp kiểm sát qua biên bản hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải đối chiếu biên bản đang kiểm sát với các biên bản hỏi cung trước và các biên bản hỏi cung của bị can khác để xác định giữa các bản cung có thống nhất với nhau hay không? Việc hỏi cung bị can đã đầy đủ chưa? Nếu chưa đầy đủ thì còn thiếu các vấn đề gì, hướng xử lý thế nào? Việc hỏi cung của Điều tra viên có vi phạm gì cần khắc phục không?

3. Lấy lời khai và kiểm sát việc lấy lời khai bị hại

Bị hại trong vụ án trộm cắp tài sản là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản do tội phạm trộm cắp tài sản gây ra. 

Kiểm sát viên tiến hành lấy lời khai bị hại trong vụ án trộm cắp tài sản khi xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra. Khi lấy lời khai bị hại, Kiểm sát viên cần làm rõ:

- Số lượng, đặc điểm, nguồn gốc và giá trị tài sản bị mất;

- Tài sản được cất giữ ở đâu? Những ai biết về nơi cất giữ tài sản? Việc bảo vệ tài sản được thế nào? Tài sản để những nơi dễ thấy hay được cất giấu trong tủ, két sắt…Có bao nhiêu chìa khóa, chìa khóa mang theo người hay cất giữ ở đâu, đã đưa chìa khóa cho những ai, đã mất chìa khóa lần nào chưa?

- Trước thời điểm phát hiện tài sản bị mất, những ai đã đến chơi, sửa chữa các vật dụng trong nhà, những ai đã đến mua sắm tại cửa hàng…

- Bị hại phát hiện mất tài sản từ lúc nào, khi phát hiện tài sản bị mất đã có những hành động gì: có lục soát, tìm kiếm tài sản không, đã di chuyển, thay đổi vị trí các đồ vật nào tại hiện trường…  

- Bị hại có nghi ngờ tài sản bị ai trộm cắp không? Người thân, bạn bè bị hại có ai là người đã có tiền án, tiền sự, là người nghiện ma túy hay không?
- Các yêu cầu của bị hại về bồi thường thiệt hại và xử lý người phạm tội;

Khi tiến hành lấy lời khai bị hại đối với tội phạm này, Kiểm sát viên phải yêu cầu họ nói rõ vì sao họ biết được các tình tiết mà họ đã trình bày: trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay do người khác kể lại...

Lời khai của bị hại cũng cần phải được kiểm tra, đánh giá thận trọng. Thực tiễn điều tra vụ án hình sự cho thấy nhiều trường hợp người bị hại cố tình khai báo gian dối vì bị người phạm tội đe dọa, vì muốn xử lý người phạm tội thật nặng hoặc vì không tin vào khả năng giải quyết vụ án của cơ quan có thẩm quyền…

Khi kiểm sát việc lấy lời khai bị hại, Kiểm sát viên cần thực hiện các hoạt động:

- Kiểm sát chặt chẽ thành phần tham gia, chủ thể lấy lời khai; việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của bị hại;

- Kiểm sát viên lựa chọn vị trí ngồi thích hợp để quan sát được toàn bộ diễn biến, quá trình lấy lời khai của Điều tra viên, đánh giá thái độ khai báo của bị hại;

- Kiểm sát viên không làm thay nhiệm vụ của Điều tra viên, Kiểm sát viên chỉ hỏi bị hại khi phát hiện những vấn đề chưa được làm rõ có mâu thuẫn.

- Kiểm sát việc lập biên bản lấy lời khai của Điều tra viên, bảo đảm đúng diễn biến thực tế, đúng mẫu quy định, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia.

4. Lấy lời khai và kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng

Người làm chứng trong vụ án trộm cắp tài sản là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Họ có thể là người dân ở xung quanh nơi xảy ra vụ án, người phát hiện, đuổi bắt người phạm tội…

Trong quá trình điều tra, để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai bị hại, đương sự trong các trường hợp sau đây: có căn cứ xác định việc lấy lời khai của Điều tra viên, Cán bộ điều tra không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật; trong trường hợp lời khai của người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập được; có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của người làm chứng; trường hợp cần thiết khác để làm rõ chứng cứ, tài liệu.

Khi lấy lời khai người làm chứng, Kiểm sát viên cần khai thác triệt để mọi hiểu biết của người làm chứng về hành vi của người phạm tội trong các giai đoạn chuẩn bị phạm tội, thực hiện tội phạm; công cụ phương tiện phạm tội, nơi cất giấu vật chứng của vụ án; các tin tức, tài liệu về nhân thân của người phạm tội; mối quan hệ giữa họ với người phạm tội, bị hại…

Trước tiên, Kiểm sát viên yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết về những tình tiết mà họ biết về vụ án. Việc này rất cần thiết nhằm kiểm tra thái độ khai báo của người làm chứng để vận dụng chiến thuật lấy lời khai phù hợp, cũng như khai thác mọi hiểu biết của họ về các tình tiết của vụ án. Quá trình trình bày hoặc viết bản tự khai, nếu người làm chứng lúng túng, không rõ phải viết hay trình bày thế nào, bắt đầu từ đâu, thì Kiểm sát viên phải hướng dẫn cho người làm chứng cách khai báo theo trình tự thời gian xảy ra sự việc hoặc phải bắt đầu từ sự việc gì. Trong khi họ trình bày, Kiểm sát viên chú ý lắng nghe và có những cử chỉ, lời nói thể hiện sự quan tâm đến lời nói của họ; không nên cắt ngang khi họ đang trình bày, trừ khi họ nói về những tình tiết không liên quan gì đến vụ án. Còn khi họ tự viết về những tình tiết vụ án, Kiểm sát viên phải tập trung quan sát, để ý thái độ, biểu hiện của người làm chứng để có thêm thông tin đánh giá thái độ khai báo của họ.

Kiểm sát viên còn cần yêu cầu người làm chứng nói rõ vì sao họ biết được tình tiết mà họ đã trình bày liên quan đến nguồn tin về tội phạm, vụ án, nhân thân người bị buộc tội, bị hại như: họ trực tiếp nhìn thấy người phạm tội đột nhập vào nhà, cửa hàng, nhìn thấy đối tượng lấy tài sản; họ nghe thấy sự bàn bạc, thảo luận về việc trộm cắp tài sản của người phạm tội; họ được người khác kể lại về hành vi trộm cắp tài sản...

Khi kiểm sát biên bản lấy lời khai người làm chứng, Kiểm sát viên xem xét về thẩm quyền lấy lời khai, sự có mặt của những người liên quan, ngày giờ tiến hành; kiểm sát việc tiến hành các thủ tục trước khi lấy lời khai (kiểm tra lý lịch của người làm chứng, xem xét tình trạng sức khỏe, giải thích quyền, nghĩa vụ của người làm chứng); việc ký xác nhận của người làm chứng về những điểm sửa chữa, thêm, bớt… Nghiên cứu nội dung lời khai của người làm chứng, đối chiếu, so sánh với các lời khai trước đó và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, để phát hiện những vấn đề Điều tra viên chưa làm rõ, những mâu thuẫn cần giải quyết và cả các vấn đề cần bổ sung, từ đó ghi chép lại để trao đổi hoặc yêu cầu Điều tra viên có biện pháp bổ sung, khắc phục, sửa chữa.

Ảnh minh họa (Internet)

5. Kiểm sát việc trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản

Việc trưng cầu giám định trong điều tra các vụ án trộm cắp tài sản được tiến hành nhằm xác định đối tượng gây án, thu thập, củng cố các chứng cứ của vụ án. Các giám định thường được tiến hành: giám định dấu vết chân, giày, dép, dấu vết công cụ cạy phá, dấu vết vân tay… 

Khi kiểm sát việc trưng cầu giám định, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hình thức và nội dung quyết định trưng cầu giám định, bảo đảm quyết định được ban hành đúng mẫu, đúng thẩm quyền, chính xác về căn cứ pháp luật, nội dung yêu cầu giám định phải rõ ràng, đầy đủ; kiểm sát kết luận giám định cần lưu ý đến phương pháp, phương tiện mà người giám định dùng để kết luận giám định. 

Trong điều tra tội phạm trộm cắp tài sản, cơ quan điều tra phải yêu cầu định giá tài sản trộm cắp để làm căn cứ xác định có tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra hay không, hành vi của đối tượng đã cấu thành tội phạm hay chưa, mức bồi thường thiệt hại về tài sản, khung hình phạt áp dụng… Khi kiểm sát việc yêu cầu định giá tài sản, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hình thức và nội dung văn bản yêu cầu định giá tài sản, bảo đảm văn bản được ban hành đúng mẫu, đúng thẩm quyền, chính xác về căn cứ pháp luật, đầy đủ nội dung; kiểm sát thời hạn định giá, thời hạn có kết quả định giá tài sản; khi nhận được kết luận định giá tài sản, Kiểm sát viên cần lưu ý đến các căn cứ để hội đồng định giá kết luận về giá của tài sản. 

6. Kiểm sát việc nhận dạng

Mục đích tiến hành nhận dạng là nhằm xác nhận sự giống hay khác nhau giữa đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà người nhận dạng đã nhìn thấy trước đây. Trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản, Điều tra viên có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho bị hại, người làm chứng, bị can nhận dạng để xác định người phạm tội, công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, tài sản bị trộm cắp, xác định chủ sở hữu của vật chứng…

Trong quá trình kiểm sát hoạt động điều tra, nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng. Nếu Điều tra viên không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kiến nghị Cơ quan điều tra khắc phục.

Trước khi trực tiếp kiểm sát việc nhận dạng, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án để làm rõ:

- Có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không? Để xác định được, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ nội dung lời khai của người nhận dạng về những vết tích và đặc điểm của đối tượng mà trước đây họ đã tri giác được, khả năng tri giác của họ cũng như điều kiện, hoàn cảnh lúc họ nhìn thấy đối tượng.

- Việc Điều tra viên lựa chọn người nhận dạng, đối tượng nhận dạng, người chứng kiến đã chính xác, đúng pháp luật hay chưa?

- Điều tra viên đã hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được hay chưa?  

Kiểm sát viên kiểm sát việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của những người tham gia việc nhận dạng; Kiểm sát việc đặt câu hỏi của Điều tra viên và lời khai báo của người nhận dạng, nếu phát hiện Điều tra viên đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý đối với người nhận dạng thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên khắc phục.

Trường hợp kiểm sát qua biên bản nhận dạng thì Kiểm sát viên kiểm sát tính cần thiết tiến hành biện pháp nhận dạng; kiểm sát thẩm quyền tiến hành nhận dạng, việc kiểm tra sức khỏe người tham gia, việc giải thích cho bị hại hoặc người làm chứng trách nhiệm về việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối khi họ là người nhận dạng...Nghiên cứu các câu hỏi mà Điều tra viên đặt ra cho người nhận dạng để xác định có việc Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý hay không? Nghiên cứu lời khai báo của những người tham gia việc nhận dạng, so sánh với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án...

7. Thực nghiệm điều tra và kiểm sát thực nghiệm điều tra

Trong điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, thực nghiệm điều tra được tiến hành khi cần kiểm tra tính chính xác, khách quan trong lời khai của bị can, bị hại, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác về các tình tiết liên quan đến vụ án: khả năng bị can thực hiện được hành vi nhất định, khả năng tri giác của người làm chứng, bị hại, làm rõ diễn biến cụ thể của sự việc, làm rõ quá trình hình thành dấu vết ở hiện trường vụ án. Ví dụ: thực nghiệm điều tra để làm rõ bị can vô hiệu hóa thiết bị bảo vệ tài sản thế nào;trong thời gian 15 phút, bị can có thể đi từ nhà đến cửa hàng trộm cắp tài sản rồi quay trở về hay không; người làm chứng có thể nhìn thấy bị can di chuyển tài sản với khoảng cách 20 m vào đêm tối hay không; làm rõ công cụ gây ra và quá trình hình thành dấu vết cạy phá ở cửa ra vào… 

Kiểm sát viên chỉ tiến hành thực nghiệm điều tra khi đã yêu cầu Điều tra viên thực nghiệm điều tra nhưng Điều tra viên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên làm rõ các tình tiết, sự việc nào cần phải kiểm tra, xác minh bằng thực nghiệm điều tra; các chứng cứ, tài liệu, đồ vật nào cần sử dụng, các hoạt động thực nghiệm cụ thể phải tiến hành; nghiên cứu để nắm rõ đặc điểm nhân thân, thái độ của những người tham gia. Khi thực nghiệm điều tra, cần tái tạo lại hoàn cảnh giống ở mức tối đa hoàn cảnh trong đó sự việc xảy ra, tốt nhất nên thực nghiệm tại địa điểm thực hiện hoặc phát hiện tội phạm trộm cắp tài sản. Kiểm sát viên nên cho người tham gia thực hiện lại hành vi nhiều lần để có thể xem xét, đánh giá được cụ thể, chính xác. Không được có hành động câm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người tham gia đối chất. Tiến hành xem xét, so sánh giữa hành vi của người tham gia thực nghiệm với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được. 

Khi trực tiếp kiểm sát việc thực nghiệm điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, Kiểm sát viên cần phải kiểm sát chặt chẽ thành phần tiến hành, tham gia thực nghiệm điều tra, bảo đảm đúng theo quy định của BLTTHS năm 2015; chủ động yêu cầu Điều tra viên tiến hành các hoạt động thực nghiệm nếu qua kiểm sát nhận thấy chưa đầy đủ; kiểm sát việc lập biên bản thực nghiệm, kiểm tra, đối chiếu kỹ giữa bản ảnh, sơ đồ và biên bản thực nghiệm điều tra với thực tế diễn biến quá trình thực nghiệm trước khi ký tên vào sơ đồ, biên bản.

Khi kiểm sát gián tiếp qua biên bản thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ về thành phần tiến hành, tham gia việc thực nghiệm điều tra; việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị của những người tham gia. Nghiên cứu nội dung biên bản để xác định các tình tiết, sự việc, hiện tượng nào đã được kiểm tra, xác minh và kết quả thế nào? Các tình tiết, sự việc, hiện tượng nào cần thiết phải kiểm tra, xác minh bằng thực nghiệm điều tra nhưng chưa được thực hiện và hướng giải quyết; so sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa kết quả thực nghiệm điều tra với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án.

Mọi trường hợp Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát việc thực nghiệm điều tra thì không ký vào biên bản thực nghiệm điều tra.

8. Tiến hành đối chất 

Đối chất thường được áp dụng trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản khi có sự mâu thuẩn giữa bị hại và bị can về số lượng, đặc điểm của tài sản bị trộm; mâu thuẩn giữa bị hại và người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau về đặc điểm của người thực hiện hành vi phạm tội… mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẩn.

Việc đối chất chủ yếu được thực hiện bởi Điều tra viên, Kiểm sát viên chỉ tiến hành đối chất trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự khi đã yêu cầu đối chất mà Điều tra viên không thực hiện hoặc kết quả đối chất chưa rõ. Trước khi tiến hành đối chất, Kiểm sát viên phải xác định chính xác các vấn đề còn mâu thuẫn và nguyên nhân; lựa chọn các chứng cứ, tài liệu cần sử dụng khi đối chất; nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những người tham gia đối chất; dự kiến các câu hỏi cụ thể đưa ra, các câu trả lời của người tham gia đối chất và hướng xử lý đối với từng câu trả lời; dự kiến cách giải quyết đối với trường hợp người tham gia đối chất từ chối khai báo, thay đổi lời khai. Với vụ án mà bị hại là người dưới 18 tuổi, Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý nghiên cứu kỹ xem, ngoài đối chất ra, còn biện pháp nào khác để giải quyết mâu thuẫn trong lời khai hay không? Nếu có thì không được tiến hành đối chất. Chỉ khi có đủ căn cứ xác định, nếu không tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can thì không thể giải quyết được vụ án, lúc đó Kiểm sát viên mới tiến hành đối chất.

Tiến hành đối chất, Kiểm sát viên hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó hỏi họ về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Với mỗi câu hỏi, Kiểm sát viên đưa ra cho người này trả lời, người này trả lời xong thì Kiểm sát viên cũng hỏi lại câu hỏi đó với người kia và yêu cầu người kia trả lời. Sau khi hỏi và những người tham gia đối chất trả lời xong câu hỏi này, Kiểm sát viên đưa ra các câu hỏi khác cho đến khi hết các vấn đề cần hỏi. Kiểm sát viên nên tăng cường cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau nhằm giải quyết các mâu thuẩn, góp phần xác định sự thật vụ án. Chỉ sau khi những người tham gia đối chất đã khai xong mới được nhắc lại những lời khai trước đó của họ. Điều này để bảo đảm khách quan trong lời khai của những người tham gia đối chất.

Kiểm sát viên cũng cần chú ý quan sát thái độ, cử chỉ, hành động của những người tham gia đối chất, vì việc này sẽ cung cấp cho Kiểm sát viên các thông tin quan trọng như: người tham gia đối chất khai báo đúng sự thật hay gian dối, có sự thông cung giữa những người tham gia đối chất hay không?... Kiểm sát viên không để người tham gia đối chất tiếp xúc với nhau ngoài sự giám sát của mình, tránh trường hợp họ thống nhất lời khai, tác động lẫn nhau. 

Kiểm sát viên phải giữ vững sự tự tin, thận trọng, bình tĩnh xử lý các tình huống xảy ra trong khi đối chất, nhất là tình huống người tham gia đối chất chống đối, không hợp tác. Tuyệt đối không được vội vàng, nóng giận, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia đối chất...

Chỉ tiến hành lập biên bản đối chất sau khi hoàn thành các nội dung cần đối chất, không nên vừa hỏi vừa lập biên bản. Về cách ghi biên bản, thực tiễn thường áp dụng cách sau: Chia dọc từng trang biên bản thành hai cột, một bên ghi câu hỏi và câu trả lời của người này, một bên ghi câu hỏi và câu trả lời của người kia.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

2. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

3. Nguyễn Cao Cường, Những vấn đề cần lưu ý khi lấy lời khai và kiểm sát lấy lời khai người làm chứng, Tạp chí Kiểm sát số 16/2017

4. Nguyễn Cao Cường, Một số vấn đề cần quan tâm khi tiến hành đối chất và kiểm sát việc đối chất, Tạp chí Khoa học kiểm sát số 6/2017.

5. Quy chế tạm thời Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

6. Quy chế tạm thời Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm Điều tra và giám định ban hành kèm theo theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 5 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 

Trả lại giá trị tài sản trộm cắp, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ là bồi thường thiệt hại

(Kiemsat.vn) - Tình tiết cha mẹ của A hoàn trả lại tiền cầm xe cho anh B có thể xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2015 mà không phải là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” theo điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Cần xác định giá trị tài sản bị trộm cắp theo giá trị chứng minh được

(Kiemsat.vn) - Trong trường hợp có sự khai báo khác nhau giữa bị hại và bị can về giá trị tài sản trộm cắp thì Cơ quan điều tra có thể chứng minh được đến mức độ nào thì chỉ nên xử lý trách nhiệm của T đến mức đó.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang