Cần xác định giá trị tài sản bị trộm cắp theo giá trị chứng minh được
(kiemsat.vn) Trong trường hợp có sự khai báo khác nhau giữa bị hại và bị can về giá trị tài sản trộm cắp thì Cơ quan điều tra có thể chứng minh được đến mức độ nào thì chỉ nên xử lý trách nhiệm của T đến mức đó.
Xe máy gây tai nạn trong vụ án giao thông là vật mang dấu vết tội phạm
Có cần tước giấy phép lái xe trong vụ án vi phạm giao thông đường bộ?
Tòa án có giải quyết việc nuôi con chung khi vợ chồng ly hôn lần thứ hai?
Qua nghiên cứu bài viết: “Bị hại có nghĩa vụ chứng minh giá trị tài sản bị trộm?” của tác giả Dương Thanh, đăng trên kiemsat.vn ngày 02/10/2018, tôi có một số ý kiến cùng trao đổi như sau:
Ảnh minh họa |
Theo nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được quy định tại Điều 15 BLTTHS, thì:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Trong trường hợp này, cơ quan điều tra không đủ cơ sở chứng minh được T đã trộm tiền và vàng của ông B với số lượng, giá trị như lời ông B khai báo. Do vậy, không thể căn cứ theo lời khai báo từ một phía của ông B (vì rất có thể xảy ra trường hợp ông B bị nhầm lẫn, không nhớ rõ về tài sản bị trộm của mình…v.v.) để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.
Nói cách khác, cơ quan điều tra có thể chứng minh được đến mức độ nào thì chỉ nên xử lý trách nhiệm của T đến mức đó. Vì vậy, có thể trong một vài trường hợp không thể đảm bảo tính khách quan một cách tuyệt đối, do người lấy trộm tài sản có thể lấy trộm nhiều hơn số lượng, giá trị khai báo. Nhưng trong những trường hợp đó, vẫn phải chấp nhận, khả năng thiệt thòi sẽ nghiêng về phía người bị mất trộm vì không có đầy đủ cơ sở để chứng minh nếu chỉ đơn thuần dựa theo nội dung khai báo từ một phía.
Thiết nghĩ, trong trường hợp này chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.
Xem thêm>>>
Trộm cắp tài sản - mối lo từ người giúp việc
Chiếc áo quên tại hiện trường “tố” kẻ nhiều lần trộm cắp
Tiêu thụ tài sản trộm cắp của người dưới 16 tuổi có phạm tội không?
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
-
7Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam
Bài viết chưa có bình luận nào.