Bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa

24/04/2025 14:23

(kiemsat.vn)
Án phí dân sự là một yếu tố quan trọng trong quá trình tố tụng dân sự, hiện diện trong hầu hết các bản án, quyết định dân sự, là khoản chi phí mà đương sự phải nộp trong mỗi vụ án do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Pháp luật hiện hành đã có nhiều văn bản hướng dẫn về cách thu, nộp, miễn án phí; tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu trái chiều về cách tính án phí nói chung cũng như trong trường hợp các bên đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa. Vậy nên, trong nội dung bài viết này tác giả sẽ bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau, đồng thời đưa ra các quan điểm và cách hiểu riêng về vấn đề này dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc công bằng.

Nội dung tình huống: Ngày 12/3/2024 ông Nguyễn Đình Đ, bà Nguyễn Thị C khởi kiện yêu cầu TAND thành phố H giải quyết buộc ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị N phải trả cho ông Đ, bà C trả số tiền 1.200.000.000đ mà ông T, bà N đã vay trước đó. Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trước khi mở phiên tòa. Ông Đ, bà C và bà N đều là người cao tuổi và có đơn xin miễn giảm án  phí. Về phần án phí, TAND thành phố H xác định: Bà Trần Thị N được miễn án phí dân sự, ông Nguyễn Văn T phải chịu 12.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Hiện nay có hai luồng quan điểm trái chiều về nghĩa vụ chịu án phí của các đương sự cũng như cách tính án phí trong trường hợp trên như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tòa án xác định bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp. Bởi trong vụ án dân sự nếu các bên đương sự thỏa thuận thành thì việc xác định, tính án phí phải áp dụng theo nguyên tắc thứ tự quy định tại khoản 1 Điều 147 BLTTDS và khoản 1, 2, 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án (gọi tắt là Nghị quyết 326). Sau đó mới vận dụng trong trường hợp vụ án được thỏa thuận thành theo quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị quyết 326.

Theo đó, đối với vụ án dân sự trên, việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn đồng nghĩa với việc “toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận” nên “bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm” (khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326). Tuy nhiên, do các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án trước khi mở phiên tòa nên “phải chịu 50% mức án phí”. Do đó, bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị N phải chịu 24.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Do bà Trần Thị N là người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên buộc ông Nguyễn Văn T phải chịu 12.000.000đ.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Tòa án xác định bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm như trên là không chính xác. Bởi căn cứ theo quy định tại khỏa 3 Điều 147 BLTTDS và khoản 7 Điều 26 Nghị quyết 326 quy định: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch…”. Như vậy thuật ngữ: “Các bên đương sự” ở đây có nghĩa là cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có) đều có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp họ đi đến được một thoả thuận chung với nhau tại phiên hoà giải trước khi mở phiên toà, và mức án phí mà họ phải chịu sẽ bằng với 50% mức án phí của một vụ án giải quyết theo thủ tục xét xử sơ thẩm thông thường.

Theo đó, đối với vụ án dân sự trên do các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án trước khi mở phiên tòa nên nguyên đơn (ông Đ, bà C) và bị đơn (ông T, bà N) mỗi bên phải chịu 12.000.000đ. Do nguyên đơn là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên không phải chịu 12.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Về bị đơn do bà N cũng là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên ông T chỉ phải chịu 6.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm (1/2 của số tiền 12.000.000đ).

Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ:

Thứ nhất, đây là trường hợp Tòa án ghi nhận ý chí thỏa thuận của các đương sự trong vụ án chứ không phải Tòa án đưa ra phán quyết về việc “chấp nhận” hay “không chấp nhận” yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên việc áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 (Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Toà án chấp nhận) để xác định ai phải chịu án phí trong trường hợp này là không chính xác. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc các đương sự trong vụ án dân sự đều “bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự” (Điều 8 BLTTDS). Vụ án có hòa giải thành hay không là do ý chí của các đương sự, chỉ khi nào vụ án được đưa ra xét xử và toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận” thì bị đơn mới “phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm” (khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326). Trường hợp, các bên thỏa thuận với nhau về việc một bên tự nguyện chịu toàn bộ án phí thì trước tiên phải xác định chính xác về trách nhiệm chịu án phí của từng người, xem xét ai thuộc trường hợp được miễn án phí, từ đó mới có căn cứ cho việc số tiền án phí còn lại mà mỗi người phải chịu là bao nhiêu thì mới đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS và khoản 7 Điều 26 Nghị quyết 326 đều quy định trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án trước khi mở phiên tòa thì “họ phải chịu 50% mức án phí”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLTTDS thì đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Như vậy, theo quy định trên thì trong trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án trước khi mở phiên tòa thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều phải chịu 50% mức án phí chứ không riêng mỗi “bị đơn” phải chịu “50% mức án phí” như trong quan điểm như nhất nêu trên.

Trên đây là quan điểm của tác giả, xin trao đổi cùng bạn đọc và đồng nghiệp.

Trách nhiệm pháp lý không duy trì thực hiện hợp đồng thương mại khi vi phạm - một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

(Kiemsat.vn) - Đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng là các biện pháp làm chấm dứt hợp đồng khi một bên có hành vi vi phạm. Các biện pháp này nhằm không duy trì thực hiện hợp đồng thương mại và được quy định tại Luật thương mại năm 2005. Bài viết phân tích về trách nhiệm pháp lý không duy trì thực hiện hợp đồng thương mại khi vi phạm, từ đó, chỉ ra một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang