Về các nguyên tắc của chính sách hình sự
(kiemsat.vn) Các nguyên tắc của chính sách hình sự là một bộ phận cấu thành quan trọng của lý luận về chính sách hình sự, có ý nghĩa nhận thức luận và thực tiễn đối với việc xây dựng và thực hiện chính sách hình sự, thâm nhập toàn bộ chính sách hình sự. Bài viết này làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa, nội dung của các nguyên tắc của chính sách hình sự.
Hoàn thiện quy định về ban hành quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án
Một số giải pháp phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng
Trao đổi về cấu thành tội phạm tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm
1. Khái quát về các nguyên tắc của chính sách hình sự
Trong mọi lĩnh vực hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, các nguyên tắc được gọi là các tư tưởng chỉ đạo nền tảng được sử dụng để xác định nội dung cơ bản của hoạt động đó, các nhiệm vụ và các định hướng cơ bản của nó. Trong khoa học, các nguyên tắc của chính sách hình sự được hiểu là những luận điểm cơ bản, các tư tưởng chỉ đạo làm cơ sở cho việc phòng, chống tình hình tội phạm. Ở đây muốn nói về các tư tưởng mang tính nền tảng cơ bản của hoạt động của Nhà nước, trong đó có các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp quan trọng nhất của cá nhân, xã hội và Nhà nước khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Cần phải phân biệt sự khác nhau giữa các nguyên tắc của chính sách hình sự và các nguyên tắc của luật hình sự (và hơn thế nữa các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự). Bởi lẽ, đó là hai thuật ngữ phản ánh hai hiện tượng tuy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có tính độc lập với nhau: Chính sách hình sự và luật hình sự (luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự). Các nguyên tắc của chính sách hình sự không chỉ xác định tính chất và nội dung của pháp luật khối hình sự (pháp luật tư pháp hình sự) và thực tiễn áp dụng nó. Chúng có ý nghĩa và lĩnh vực hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Chiến lược và chiến thuật hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc của chính sách hình sự, và cuối cùng, các nguyên tắc đó ảnh hưởng đến thực tiễn áp dụng pháp luật. Khi được quy định trong pháp luật hình sự các nguyên tắc của chính sách hình sự là các nguyên tắc của luật hình sự được ghi nhận trong pháp luật hình sự, có được sự thể hiện pháp lý của mình trong kết quả của chính sách hình sự, thể hiện theo thực chất là các luận điểm cơ bản, nền tảng của nó. Ở đây cần phải nhìn thấy tính phức tạp, tính tinh tế trong mối tương quan của các nguyên tắc của chính sách hình sự và các nguyên tắc của luật hình sự; bởi vì, các nguyên tắc của chính sách hình sự tiếp giáp với các nguyên tắc của luật hình sự trong lĩnh vực ý thức pháp luật và ở mức độ phản ánh của chúng trong pháp luật hình sự. Nhưng các nguyên tắc của chính sách hình sự là các đòi hỏi mang tính chất đạo đức, tư tưởng và chính trị được quy định bởi chế độ nhà nước và xã hội mà dựa vào đó hệ thống các quan điểm (quan niệm) và các mệnh lệnh của Nhà nước được xác định và việc soạn thảo các quy phạm pháp luật điều chỉnh phòng, chống tình hình tội phạm được hình thành và việc áp dụng các quy phạm đó trên thực tiễn được thực hiện. Các nguyên tắc đó có nội dung được xác định trước bởi các nhu cầu và quy luật phát triển của xã hội, để thực hiện các nhiệm vụ của pháp luật hình sự (đạo luật hình sự) là bắt buộc cả đối với các cơ quan lập pháp lẫn đối với các cơ quan áp dụng pháp luật và thực hiện các chức năng của sự điều chỉnh và bảo vệ trực tiếp và trung gian các quan hệ xã hội.
Ngoài ra, trong số các nguyên tắc của chính sách hình sự còn bao gồm cả các nguyên tắc không thể ghi nhận trong Bộ luật Hình sự với tư cách là các nguyên tắc độc lập, nhưng những điều đó hoàn toàn không làm giảm ý nghĩa của chúng. Ở đây muốn nói về các luận điểm mà ở đó vấn đề chính, cơ bản, cốt yếu trong nội dung của chính sách hình sự được thể hiện, tính chất của đạo luật hình sự, các quy phạm và các chế định của nó, tinh thần và ý nghĩa của chính sách đó được xác định. Do đó, cùng với các nguyên tắc được ghi nhận trong pháp luật hình sự còn có các nguyên tắc như: Tiết kiệm (hạn chế) sự trừng trị hình sự; không thoát khỏi và phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt; tối ưu hóa việc phòng ngừa tội phạm bằng pháp luật hình sự.
Sử dụng khái niệm chung về nguyên tắc vào lĩnh vực chính sách hình sự, có thể định nghĩa: Các nguyên tắc của chính sách hình sự là các tư tưởng chỉ đạo, nền tảng xác định nội dung của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, cũng như các nhiệm vụ, chức năng, định hướng, giải pháp, phương thức và phương pháp cụ thể phòng, chống tình hình tội phạm. Như vậy, các nguyên tắc dường như “thâm nhập” vào toàn bộ cơ cấu của chính sách hình sự, là hạt nhân và định hướng cho hoạt động phòng, chống tình hình tội phạm. Đặc điểm đặc trưng của các nguyên tắc của chính sách hình sự là tính quy phạm của chúng. Các nguyên tắc đó được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, trong các đạo luật điều chỉnh lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm, hoặc được lấy ra từ các văn bản đó và là bắt buộc đối với tất cả các chủ thể của chính sách hình sự.
Bởi vì, các nguyên tắc của chính sách hình sự có tiêu chuẩn bắt buộc chung, do vậy, tất cả các quyết định được soạn thảo ở trình độ quan điểm/quan niệm cần phải dựa vào các nguyên tắc đó. Sự tương thích với hệ thống các nguyên tắc của chính sách hình sự, với định hướng của chúng đến việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật của phòng, chống tình hình tội phạm ở tất cả các cấp độ - ở cấp trung ương và ở cấp địa phương là điều kiện cần thiết đối với việc những người có chức vụ, quyền hạn, các chủ thể của chính sách hình sự thông qua các quyết định. Chỉ trong trường hợp như vậy, quyết định tương ứng mới có thể được xem là hợp pháp, hợp lý, có lập luận khoa học ở phương diện xã hội và pháp luật. Và ngược lại, sự từ bỏ các nguyên tắc, việc vi phạm chúng, cho dù của bất cứ ai, đều bị coi là không hợp pháp. Do vậy, các nhà lý luận về chính sách hình sự, những người soạn thảo chính sách hình sự, những nhà làm luật và những người áp dụng pháp luật đều phải tuân thủ vô điều kiện các nguyên tắc của chính sách hình sự.
Những người nghiên cứu khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự và các ngành pháp luật khác có nhiệm vụ phòng, chống tình hình tội phạm không chỉ buộc phải giải thích chính xác nội dung các nguyên tắc của chính sách hình sự mà còn phải phát triển các nguyên tắc đó khi có cơ sở, căn cứ. Đồng thời, các nguyên tắc của luật hình sự là định hướng đối với những người soạn thảo chính sách hình sự, bởi vì, cả các quan điểm (quan niệm), lẫn các đề nghị (kiến nghị) tác động đến bối cảnh xã hội và bối cảnh tội phạm không chỉ được thực hiện thông qua luật, trong đó có việc đưa ra những sửa đổi, bổ sung pháp luật hình sự. Chẳng hạn, điều đó liên quan đến các luận điểm về phòng, chống tình hình tội phạm có tổ chức, tình hình tội phạm tham nhũng, tình hình tội phạm về ma túy, các tội phạm khủng bố, tình hình tội phạm của người chưa thành niên… Mọi toan tính đối lập chính sách hình sự và luật hình sự, đồng nhất các khái niệm pháp lý và các khái niệm xã hội (ví dụ, như điều đó đã xảy ra, với mong muốn quy định các quy phạm pháp luật hình sự về tham nhũng), hoặc quy định các biện pháp mang tính chất phòng ngừa đặc biệt nào đó là không được chấp nhận về nguyên tắc, bởi vì mâu thuẫn với nguyên tắc pháp chế và trách nhiệm cá nhân của những người thực hiện tội phạm.
Xuất phát từ việc phân tích tình huống xã hội và tình huống tội phạm, nhà làm luật buộc phải xác định nhóm các hành vi bị coi là phạm tội và bị trừng trị bằng hình sự và cân nhắc rằng, nhóm hành vi đó là đầy đủ ở thời điểm nhất định, hoàn toàn rõ ràng và chỉ ra một cách cụ thể các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm. Đó cũng là một điều kiện của việc thực hiện nguyên tắc pháp chế. Chẳng hạn, khoản 1 và 2, Điều 2 Bộ luật Hình sự Việt Nam cấm áp dụng nguyên tắc tương tự trong pháp luật hình sự (pháp luật hình sự tương tự). Nói cách khác, không cho phép khắc phục các chỗ hỏng của pháp luật đã được phát hiện trong đạo luật hình sự bằng cách áp dụng nó đối với những trường hợp không được quy định trực tiếp trong luật, cho dù một phần chúng giống với các quy định đã được mô tả trong đạo luật hình sự.
Nhà làm luật phải bị ràng buộc bởi các nguyên tắc của chính sách hình sự trong quá trình soạn thảo các dự án luật để phòng, chống tình hình tội phạm. Ví dụ, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc pháp chế và trách nhiệm vì có lỗi, nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự (Điều 10 và Điều 11) “các hình thức lỗi” và một số điều kiện trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đối với những hành vi được thực hiện do vô ý. Nói chung, sự ràng buộc của các nguyên tắc đối với nhà làm luật đã được thể hiện trong chính sách hình sự là chỉ số phản ánh mong muốn đạt được sự thống trị tối cao chân chính của pháp chế, pháp quyền và công bằng. Nếu không có sự thống trị của các nguyên tắc đó, trong đó có các nguyên tắc trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm, thì không thể có sự ngự trị của tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được ghi nhận trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam. Đạo luật hình sự cần phải là đạo luật “hợp pháp”, “pháp quyền” không chỉ là theo các dấu hiệu hình thức (được cơ quan có thẩm quyền ban hành trong giới hạn thẩm quyền…) mà còn phải phù hợp hoàn toàn với các nguyên tắc của luật hình sự.
Như vậy, các nguyên tắc của chính sách hình sự - đó là các tư tưởng mà dựa vào đó các đạo luật, các văn bản dưới luật được soạn thảo, ban hành và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm được tiến hành.
2. Các nguyên tắc cụ thể của chính sách hình sự
Hiện nay, vẫn có những quan điểm khác nhau về số lượng và tên gọi các nguyên tắc của chính sách hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, trong số các nguyên tắc của chính sách hình sự có thể nêu ra các nguyên tắc sau đây: Pháp chế, công bằng, (tính) tổng hợp, sự tương xứng của các nhiệm vụ, thẩm quyền với nguồn lực, tính chất vượt trước của các quyết định chiến lược.
2.1. Nguyên tắc pháp chế của chính sách hình sự
Trong chính sách hình sự, nguyên tắc pháp chế được hiểu là sự phù hợp của hoạt động trong lĩnh vực này với Hiến pháp Việt Nam; sự phù hợp của toàn bộ hệ thống các văn bản dưới luật và các quyết định quản lý với đạo luật và sự phù hợp của đạo luật được áp dụng với tư tưởng chính xác của nó. Nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn không chỉ những vấn đề về tính tội phạm và tính phải chịu hình phạt của hành vi, mà còn những vấn đề khác liên quan. Ví dụ, tính công bằng của thủ tục tố tụng, tính nhân đạo của trách nhiệm hình sự và hình phạt, cũng như của việc áp dụng các biện pháp điều tra nghiệp vụ dựa vào luật, việc xây dựng cơ sở chứng cứ và thực hiện trong tiến trình hoạt động áp dụng pháp luật chính các quy phạm có hiệu lực trong thời điểm đó và nơi đó, các nguyên tắc chung của quyết định hình phạt, cá thể hóa trách nhiệm, các cơ sở và các điều kiện thực hiện các loại trách nhiệm hình sự cụ thể. Nguyên tắc pháp chế hoàn toàn có hiệu lực áp dụng đối với các hậu quả pháp lý của trách nhiệm hình sự và hình phạt như án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt. Cần lưu ý rằng, không cho phép đối lập tính hợp pháp với tính hợp lý, tính hợp pháp cần phải hợp lý, cần phải được hợp lý, cần phải được lập luận, điều đó liên quan cả đến giai đoạn xây dựng pháp luật và giai đoạn áp dụng pháp luật. Ngược lại, quyết định hợp lý bao giờ cũng phải hợp pháp. Chẳng hạn, sự cho phép có các phương án hành vi khác nhau được quy định trong luật, ví dụ, khi giải quyết các vấn đề về truy cứu hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm phù hợp với sự tương xứng đó hoặc là về chiến thuật và các phương thức hoạt động khi áp dụng vũ lực trong trường hợp mất trật tự công cộng và trong nhiều trường hợp khác, khi đó những người có thẩm quyền của các cơ quan bảo vệ pháp luật đưa ra các quyết định tương ứng. Tính hợp lý thực chất, chân chính bao giờ cũng hợp pháp, được dựa trên trên đạo luật hiện hành. Đạo luật hình sự trong sự tương tác với đạo luật tố tụng hình sự, đạo luật về tổ chức điều tra hình sự, đạo luật về thi hành án hình sự và các đạo luật khác, thông thường, bảo đảm khả năng thực hiện trách nhiệm hình sự của những người có lỗi và cơ sở chứng cứ cần thiết cho điều đó.
Các tình huống, vấn đề nảy sinh do không biết áp dụng đạo luật hình sự đôi khi do những người áp dụng pháp luật đưa ra do sự hạn chế, thiếu sót của chính đạo luật hình sự. Từ đây hình thành nên sự thuyết phục (niềm tin) về sự cần thiết phải xây dựng các đạo luật mới mang “thuận lợi” nào đó cho thực tiễn. Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam đã mở rộng một cách cơ bản các khả năng khuyến khích những hành vi sau khi phạm tội của người phạm tội. Không được đối lập tính hợp pháp với tính hợp lý, mà cần phải biết hoạt động trên cơ sở của tính hợp pháp. Trong mối liên hệ này không được quên nguyên tắc hiến định rằng, tôn trọng, công nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nghĩa vụ của Nhà nước.
2.2. Nguyên tắc công bằng của chính sách hình sự
Nguyên tắc này buộc nhà làm luật lựa chọn một cách có căn cứ khoa học và đầy đủ (trước hết, với sự trợ giúp của thẩm định tội phạm học) các hành vi được tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, xác định các loại và các mức chế tài nói chung, loại và mức chế tài cụ thể trong các cấu thành tội phạm cụ thể, các quy tắc chung của việc thực hiện trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp pháp luật hình sự khác (các biện pháp mang tính chất y tế, giáo dục và tịch thu tài sản) cho phép trong từng trường hợp cụ thể thực hiện được sự tác động pháp luật hình sự cần thiết và đầy đủ đối với người phạm tội để đạt được các mục đích của trách nhiệm hình sự và hình phạt. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải xây dựng các cơ chế pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự bảo đảm được việc làm sáng tỏ tất cả những người thực hiện tội phạm - hành vi bao giờ cũng xâm phạm đến sự công bằng (công lý) theo quan hệ đối với mọi công dân và xã hội. Như vậy, sự phục hồi công bằng xã hội trong lĩnh vực tư pháp hình sự khẳng định sự thống nhất của các nền tảng đạo đức và pháp luật của việc thực hiện nó.
Nguyên tắc công bằng của chính sách hình sự ở khía cạnh cá thể hóa trách nhiệm hình sự gắn liền với tính toàn diện, tính đầy đủ và tính khách quan của việc điều tra theo thủ tục tố tụng hình sự tổng thể các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án hình sự. Đặc biệt cần phải xác định tổng thể các tình tiết cần thiết để bảo vệ (phục hồi, bồi thường) các quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị hại (nạn nhân) của tội phạm trong tiến trình hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể của chính sách hình sự.
Với tư cách là nguyên tắc của chính sách hình sự, công bằng đòi hỏi phải có: Thứ nhất, việc bảo đảm không thoát khỏi trách nhiệm, làm giảm đến mức tối đa tình hình tội phạm ẩn và các tội phạm mà người phạm tội lẩn tránh hình phạt; thứ hai, sự tương xứng của việc tác động pháp luật hình sự với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, các hậu quả đã gây ra, nhân thân người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các động cơ và mục đích của tội phạm đã được thực hiện, các tình tiết khác ảnh hưởng đến tính chất và mức độ của trách nhiệm. Công bằng đòi hỏi phải bảo đảm việc đạt được sự bình đẳng của công dân trước pháp luật cho dù có những trở ngại thực tế và pháp luật đối với điều đó (ví dụ, đối với những người có chức vụ, quyền hạn cao phạm tội). Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải phục hồi một cách tối đa có thể có công bằng đối với nạn nhân của tội phạm, của các nhóm người cụ thể và của xã hội nói chung.
Hoạt động làm sáng tỏ những người phạm tội, điều tra các tội phạm, quyết định hình phạt công bằng và nhân đạo đối với những người phạm tội được thực hiện trong phạm vi của đạo luật cũng gắn liền chặt chẽ với việc thực hiện nguyên tắc công bằng. Chẳng hạn, khi quy định các chế tài lựa chọn hoặc các chế tài xác định tương đối với khoảng cách đủ rộng giữa giới hạn tối thiểu và giới hạn tối đa, nhà làm luật dành cho Tòa án khả năng hiện thực việc cá thể hóa hình phạt. Trường hợp này nói về việc mở rộng các khả năng cá thể hóa trách nhiệm và hình phạt và một lần nữa nói về việc bảo đảm công bằng của trách nhiệm và hình phạt.
Cơ chế tác động của các nguyên tắc của chính sách hình sự ở mức độ áp dụng pháp luật thể hiện ở việc những người áp dụng đạo luật hình sự: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Luật sư “thấm nhuần, thấu hiểu” sự cần thiết và mong muốn, có ý thức tuân theo các nguyên tắc của chính sách hình sự trong hoạt động áp dụng pháp luật. Trong trường hợp vi phạm các nguyên tắc nói trên thì hệ thống làm sáng tỏ và khắc phục các vi phạm đó trong thực tiễn áp dụng pháp luật cần phải vận hành. Những vi phạm đó được khắc phục trong tiến trình thực hiện sự giám sát của Viện kiểm sát và giám sát xét xử, các quyền bị vi phạm được phục hồi, bãi bỏ các hoạt động và các quyết định không dựa trên cơ sở đạo luật của các chủ thể của chính sách hình sự.
Từ quan điểm đạo đức, tội phạm - là biểu hiện cực đoan của thói hư, tật xấu, điều ác, “sự gia tăng của điều ác” trong xã hội. Trách nhiệm hình sự của người có lỗi phục hồi (khôi phục) hoặc đền bù (bồi thường) các quyền đã bị vi phạm và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, xã hội, Nhà nước. Bằng cách đó các quan niệm xã hội về công bằng được thực hiện, còn người có lỗi buộc phải chuộc lỗi. Như vậy, trừng trị là hình thức văn minh của việc thực hiện công bằng trong xã hội, là hình phạt đối với điều mà người có lỗi đã thực hiện. Nguyên tắc công bằng, cũng giống như các nguyên tắc khác của chính sách hình sự, có thể được thực hiện có cơ chế pháp lý cho phép phòng ngừa và khắc phục các vi phạm. Ở đây muốn nói về các phương tiện đã được nói ở trên của giám sát kiểm sát hoặc giám sát xét xử về việc bảo đảm các quyền của những người mà quyền của họ, công bằng đối với họ, về các biện pháp tác động phòng ngừa đối với những người vi phạm pháp luật với việc tuân thủ các quyền cơ bản bị vi phạm của họ.
Các nguyên tắc của chính sách hình sự được hình thành và vận hành để làm tối ưu hóa môi trường hoạt động, nâng cao tính ổn định trong xã hội ở cấp trung ương và địa phương, phục hồi công bằng xã hội. Ở phương diện này, khi dựa vào kết quả hoạt động của các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có thể quyết định hình phạt công bằng đối với người phạm tội và bằng cách đó phục hồi công bằng xã hội.
2.3. Nguyên tắc tổng hợp của chính sách hình sự
Với tư cách là nguyên tắc của chính sách hình sự trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm, nguyên tắc này đòi hỏi phải sử dụng các khả năng của tất cả các cấp độ và của tất cả các tiểu hệ thống của chính sách hình sự và tất cả các chủ thể của nó; sự thay đổi hài hòa trong toàn bộ hệ thống các mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng và các hậu quả của chúng; việc bảo đảm sự phối hợp hài hòa, sự tương tác lẫn nhau của tất cả các chủ thể của chính sách hình sự. Nguyên tắc này được thực hiện trong việc soạn thảo các kế hoạch và chương trình phối hợp trong phòng, chống tình hình tội phạm do các chủ thể của chính sách hình sự ở các cấp độ khác nhau, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội khác nhau xây dựng và thực hiện.
2.4. Nguyên tắc tương xứng của các nhiệm vụ, thẩm quyền với các nguồn lực của chính sách hình sự
Nguyên tắc này được hiểu rằng, khi đặt ra các nhiệm vụ mới đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm cần phải xem xét cả việc mở rộng, điều chỉnh các thẩm quyền tương ứng (nếu cần thiết, thì cần có sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật), cũng như cung cấp các nguồn lực cần thiết cho các cơ quan đó. Nói cách khác, các nhiệm vụ cần phải được đo lường tương xứng, hài hòa với tình huống hiện thực trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm và các khả năng tác động hiệu quả đến các yếu tố phạm tội nhằm mục đích làm ổn định tình huống và nâng cao mức độ bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân, xã hội, Nhà nước. Như kinh nghiệm nhiều thế kỷ cho thấy, các dự định giao cho các chủ thể thực hiện chính sách hình sự các nhiệm vụ bổ sung mà không giao cho họ các thẩm quyền, các nguồn lực biên chế - tổ chức và vật chất tương ứng sẽ dẫn đến việc “vứt bỏ” một phần công việc mà hệ thống chủ thể của chính sách hình sự không thể thực hiện được do quá tải hoặc không có khả năng thực hiện. Nhiệm vụ quan trọng của chính sách hình sự trong định hướng này là soạn thảo các phương pháp tính toán về sự tương xứng, hài hòa của các nhiệm vụ, các thẩm quyền được giao với việc bảo đảm nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Việc xây dựng các tiêu chí việc làm đối với các chủ thể thực hiện chính sách hình sự đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
2.5. Nguyên tắc về tính chất vượt trước của các quyết định chiến lược của chính sách hình sự
Nguyên tắc này có nghĩa rằng, các nhiệm vụ trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm cần phải được đặt ra và thực hiện không phải bằng con đường “thử nghiệm và sai lầm”, mà cần phải xuất phát từ các mục tiêu mang tính chiến lược được Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan xét xử đặt ra dựa trên cơ sở phân tích tình hình tội phạm, làm sáng tỏ các xu hướng và dự báo nó trong một giai đoạn gần nhất (trong điều kiện hiện nay thường là từ 2 - 3 năm hoặc nhiều hơn). Ở đây các quyết định chiến lược do các cơ quan bảo vệ pháp luật soạn thảo và được trình bày trong các mệnh lệnh, chỉ thị trong năm tới và trong tương lai xa hơn đối với tình hình tội phạm nói chung, đối với các định hướng hoạt động cụ thể nói riêng, không loại trừ, mà là đưa ra khả năng soạn thảo và ban hành các quyết định vượt trước ở mức độ chi tiết hóa trong phạm vi của địa phương.
Chính sách hình sự được thực hiện trong các quyết định chiến lược có nhiệm vụ bảo đảm cho việc hạn chế tối đa tình hình tội phạm, đưa nó đến mức độ không còn là sự đe dọa đối với an ninh xã hội và an ninh quốc gia của Việt Nam. Theo chúng tôi, quyết định chiến lược đó có khả năng đặt ra nhiệm vụ làm giảm thực trạng của tình hình tội phạm, giảm đến mức tối thiểu một số loại tình hình tội phạm cho đến các chỉ số về lượng và chất nhất định.
Tổng thể các nguyên tắc đã nêu chính là một hệ thống. Việc phân tích so sánh nội dung của các nguyên tắc cụ thể chứng minh rằng, chúng không ràng buộc với nhau theo sự phụ thuộc thứ bậc, mà là các mắt xích tư tưởng, có sự tương tác lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể nhất định, củng cố và bổ sung cho nhau.
Trong số các nguyên tắc của chính sách hình sự không có các nguyên tắc cơ bản và các nguyên tắc bổ trợ. Các nguyên tắc đó tiếp giáp với nhau theo ý nghĩa và ngay cả “thâm nhập” từng phần với nhau theo nội dung, do vậy, chúng tạo thành nền tảng của chính sách hình sự, bảo đảm sự thống nhất, tính ổn định, tính hướng đích, tính hiến định của các quy định về chính sách hình sự và hình thành nên thực tiễn thực hiện chính sách hình sự.
Việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc nêu trên của chính sách hình sự với tư cách là mô hình tư tưởng của nội dung và việc áp dụng pháp luật thuộc khối pháp luật tư pháp hình sự, tất nhiên, là quá trình lâu dài gắn liền với tiến trình đổi mới xã hội Việt Nam. Chẳng hạn, nhiều điều phụ thuộc vào việc bảo đảm nguồn lực, cán bộ, tổ chức cần thiết đối với hoạt động bảo vệ pháp luật, vào việc hình thành trong xã hội bầu không khí tin tưởng và sự ủng hộ đối với hoạt động của các chủ thể của chính sách hình sự. Hơn nữa, nếu hệ thống các nguyên tắc trực tiếp được ghi nhận trong pháp luật hoặc trong các tài liệu mang tính chỉ đạo (chỉ thị, mệnh lệnh), thì ý nghĩa của chúng rất cao. Chẳng hạn, nếu như trong chiến lược an ninh quốc gia, chiến lược phòng, chống tình hình tội phạm có một phần hay một mục quy định các nguyên tắc, các cơ sở của chính sách hình sự thì giá trị, ý nghĩa của các nguyên tắc đó được gia tăng một cách đáng kể, đóng vai trò lớn hơn trong sự hình thành ở những người áp dụng pháp luật nhận thức đúng đắn về tinh thần và lời văn của pháp luật hình sự, sự chuẩn bị hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp thường xuyên tuân thủ các đòi hỏi của nó. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các dự án luật trong lĩnh vực phòng, chống tình hình tội phạm được trình Quốc hội được nhà làm luật kết hợp ở đó các nguyên tắc của chính sách hình sự và của đạo luật hình sự. Chẳng hạn, trong Bộ luật Hình sự một số nước ghi nhận các nguyên tắc của pháp luật hình sự và ở đó cũng thể hiện các nền tảng tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức của chính sách pháp luật hình sự nói riêng, chính sách hình sự nói chung. Nghiên cứu cho thấy, Bộ luật Hình sự của một số nước trên thế giới ghi nhận các nguyên tắc của luật hình sự, ví dụ, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định các nguyên tắc của pháp luật hình sự ở các điều 3-7. Đó là kinh nghiệm tốt, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nhận thức về các nguyên tắc của chính sách hình sự nên được tiếp thu.
Như vậy, các nguyên tắc của chính sách hình sự là những tư tưởng, quan điểm thâm nhập toàn bộ chính sách hình sự, chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện chính sách hình sự, có ý nghĩa nhận thức lý luận và thực tiễn quan trọng, cần phải được nhận thức và vận dụng đúng đắn trong thực tiễn.
GS.TS. Võ Khánh Vinh - TS. Võ Khánh Linh
Quy định về tội phạm môi trường ở một số quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu
-
1Một số giải pháp phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng
-
2Quy định về tội phạm môi trường ở một số quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu
-
3Trao đổi về cấu thành tội phạm tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm
-
4Về các nguyên tắc của chính sách hình sự
Bài viết chưa có bình luận nào.