Trao đổi về bài viết “Đưa người không bị nghiện đi cai nghiện bắt buộc thì xử lý như thế nào?”
(kiemsat.vn) Tác giả cho rằng hành vi của Triệu Quốc Q đã cấu thành các tội sau: Tội vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS 2015; Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS 2015.
Thứ nhất, hành vi của Triệu Quốc Q cấu thành tội vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS 2015.
Theo quy định của Điều 156 BLHS 2015, người phạm tội vu khống sẽ thỏa mãn những hành vi sau đây:
Một là, bịa đặt: Tự người phạm tội thêu dệt nên những sự việc không có trong sự thật.
Hai là, lan truyền: là hành vi đưa thông tin từ người này đến người khác dưới mọi hình thức.
Bịa đặt, lan truyền trong tội vu khống là bịa đặt những điều xấu xa về mặt đạo đức hay những vấn đề có tính riêng tư mà gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh sự, gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Theo như tình huống mà tác giả Thanh Hải nêu trong bài viết đăng trên Kiemsat.vn ngày 05/11/2020, Triệu Quốc Q đã lập hồ sơ thể hiện anh Lò Văn T là người nghiện ma túy, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do nghiện ma túy mà hiện vẫn còn nghiện; còn thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân; các Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013, Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trên cơ sở hồ sơ do Triệu Quốc Q lập, ngày 06/9/2019, Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh B mở phiên họp để xem xét và đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 01 năm. Thực hiện quyết định của Tòa án, ngày 15/01/2020, Công an huyện S đã đưa Lò Văn T vào Trung tâm cai nghiện bắt buộc tỉnh B.
Tuy nhiên, trên thực tế, sau khi có đơn khiếu nại của chị Lò Thị Đ (vợ anh T), cơ quan chức năng đã xác minh anh Lò Văn T hoàn toàn không phải là người nghiện ma túy, chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã N, không thuộc đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính; khoản 1 Điều 3 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bên cạnh đó, lợi dụng chức vụ quyền hạn, hồ sơ Triệu Quốc Q lập đề nghị đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hồ sơ được lập khống, tự Triệu Quốc Q thêu dệt nên sự việc anh Lò Văn T là người nghiện (sự việc không có thật). Mặt khác, Triệu Quốc Q đã sử dụng hồ sơ khống này để đề nghị các cơ quan có thẩm quyền đưa anh Lò Văn T đi cai nghiện bắt buộc và Tòa án nhân dân huyện S đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Anh T đã bị đưa vào cơ sở bắt buộc cai nghiện oan trong vòng 07 tháng. Hành vi của Triệu Quốc Q đã xâm phạm đến nhân phẩm và danh dự, đến quyền và lợi ích của anh Lò Văn T, được Triệu Quốc Q thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp với mong muốn đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thứ hai, hành vi của Triệu Quốc Q đã cấu thành tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS 2015.
Điều 341 quy định về tội phạm ghép nên bao gồm những hành vi khác nhau, cụ thể:
Đối với “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” bao gồm các hành vi: Đúc, khắc… để tạo ra con dấu giả giống như con dấu thật của cơ quan, tổ chức; vẽ, in, phôtô, viết, các kỹ thuật khác… để làm ra các loại giấy tờ, tài liệu giả giống như các loại tài liệu, giấy tờ thật của cơ quan, tổ chức.
Đối với “Tội sử dụng con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức”, bao gồm các hành vi sử dụng con dấu, giấy tờ, tài liệu giả để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật như bán lại cho người khác, giao nộp tài liệu giả cho cơ quan chức năng…
Theo quy định của Điều 431 BLHS 2015 chỉ cần có hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đã cấu thành tội phạm này mà không yêu cầu đã có hậu quả xảy ra hay chưa.
Như tình huống đã nêu, để có thể lập hồ sơ thể hiện anh Lò Văn T là người nghiện ma túy từ đó đề nghị các cơ quan có thẩm quyền đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Triệu Quốc Q đã giả mạo tài liệu, giấy tờ của các cơ quan tổ chức, cụ thể:
Một là, tài liệu thể hiện anh Lò Văn T đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã theo Quyết định ngày 10/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã N, huyện S.
Hai là, tài liệu chứng minh có dương tính với ma túy theo Biên bản ngày 23/7/2019 của Trạm y tế xã N, huyện S về việc kiểm tra nhanh ma túy đối với Lò Văn T.
Ba là, Triệu Quốc Q đã giao nộp hồ sơ tài liệu giả này cho cơ quan có thẩm quyền để đề nghị cơ quan có thẩm ra các quyết định đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.
Theo xác minh của cơ quan chức năng, các tài liệu trong hồ sơ đều được làm giả, kể cả các dấu vân tay điểm chỉ mà Triệu Quốc Q cho là của anh Lò Văn T. Mặt khác, bản thân Triệu Quốc Q nhận thức được tất cả những tài liệu trong hồ sơ thể hiện anh Lò Văn T nghiện ma túy là do mình làm giả nhưng Triệu Quốc Q vẫn sử dụng tài liệu, hồ sơ giả này để đề nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đưa anh Lò Văn T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hành vi của Triệu Quốc Q đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức và của cá nhân. Trong tình huống trên, hành vi làm giả tài liệu và sử dụng tài liệu giả của Triệu Quốc Q đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Ủy ban nhân dân xã N, huyện S; ảnh hưởng đến uy tín của Trạm y tế xã N, huyện S.
Bên cạnh đó, hành vi sử dụng tài liệu giả của Triệu Quốc Q đã xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân anh Lò Văn T cũng như gia đình của anh Lò Văn T (anh T đã bị bắt đi cai nghiện bắt buộc oan trong thời gian 07 tháng, dù anh T không phải là người nghiện ma túy). Triệu Quốc Q đã thực hiện hành vi này với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì bản thân Q nhận thức được tài liệu, hồ sơ mình lập là giả.
Từ những lập luận trên, với quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng Triệu Quốc Q phạm tội vu khống theo quy định của Điều 156 BLHS 2015 với tình tiết định khung tăng nặng thuộc điểm b khoản 2 (lợi dụng chức vụ, quyền hạn) và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ, chức theo quy định của Điều 341 BLHS 2015.
Rất mong nhận được ý kiến trao đổi, đóng góp của đồng nghiệp và quý độc giả./.
-
1Về hành vi “đưa hối lộ cho công chức nước ngoài” ở một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
-
2Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án hành chính
-
3Bàn về việc xác định chủ thể kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng trong các trường hợp cơ quan nhà nước sáp nhập, chia, tách
-
4Những vấn đề lý luận, thực tiễn và hoàn thiện mô hình thiết chế chuyên trách chống tham nhũng ở nước ta hiện nay (Kỳ II)
-
5Xác định là phạm tội chưa đạt, hay tội phạm đã hoàn thành đối với người phạm tội
Bài viết chưa có bình luận nào.