Phân biệt Tội cướp tài sản với Tội cưỡng đoạt tài sản
(kiemsat.vn) Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có tính chất chiếm đoạt tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn trong việc định tội danh do dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những tội phạm này có điểm tương đồng. Theo tác giả Đinh Văn Quế (nguyên Chánh tòa Hình sự TAND tối cao), việc phân biệt loại tội phạm này cần căn cứ vào chủ thể tội phạm; động cơ, mục đích của người phạm tội và điều kiện thực tế để đánh giá.
Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015) thường chỉ bị nhầm lẫn với Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015) trong trường hợp người phạm tội có hành vi “đe dọa dùng vũ lực”.
Vậy đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản, trường hợp nào thì cấu thành Tội cướp tài sản, còn trường hợp nào chỉ cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản?
Trước hết, cần khẳng định cả hai tội này đều có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, đối với Tội cướp tài sản, phạm tội chưa đạt chỉ xảy ra trong trường hợp người phạm tội đã có hành vi khác làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể tấn công được nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn “dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” thì không có trường hợp phạm tội chưa đạt mà đều là tội phạm đã hoàn thành.
Vậy “hành vi khác” trong Tội cướp tài sản là hành vi nào? Đây cũng là vấn đề do yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này đặt ra. Trước đây về lý luận, đều khẳng định Tội cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức, tức là chỉ cần người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là tội phạm đã hoàn thành, không có trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, sau khi Điều 133 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung và nay BLHS năm 2015 cũng quy định dấu hiệu “hoặc có hành vi khác”, thì Tội cướp tài sản vừa là tội cấu thành hình thức, vừa là tội cấu thành vật chất, tức là có trường hợp tội phạm chưa đạt.
Mặc dù trường hợp dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc không có giai đoạn phạm tội chưa đạt nhưng vẫn có giai đoạn chuẩn bị phạm tội như: Trường hợp người phạm tội “định” dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, nhưng vì khách quan trở ngại nên không thực hiện được hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. Ví dụ: A, B, C, D bàn bạc chuẩn bị súng, dao để ra đường chặn người đi xe máy cướp tài sản. Nhưng trước khi đi thì D sợ nên đã báo với Công an đến “bắt nóng” A, B, C. Tuy A, B, C chưa thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhưng A, B, C đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Đối với Tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội chỉ có hành vi đe dọa dùng vũ lực chứ không có ý định nếu người bị hại không giao tài sản thì dùng vũ lực. Đây là vấn đề khó xác định, vì khi đã đe dọa dùng vũ lực nhưng người bị đe dọa không giao tài sản mà vụ việc bị phát hiện, thì hầu hết người phạm tội đều khai là chỉ dọa cho sợ để lấy tài sản, nếu người bị hại không giao tài sản thì cũng không dùng bạo lực.
Để phân biệt trường hợp đe dọa dùng bạo lực ngay tức khắc với chỉ dọa mà không đe dọa dùng bạo lực ngay tức khắc, phải căn cứ vào không gian, thời gian xảy ra vụ án. Nếu trong không gian, thời gian đó mà người bị đe dọa quá sợ phải giao tài sản cho người phạm tội thì phải định tội là cướp tài sản, bởi dù hành vi đe dọa không quyết liệt nhưng cũng làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Ví dụ: Trong đêm tối, trên đoạn đường vắng vẻ, A đã chặn xe của mẹ con chị H để chiếm đoạt tài sản, nhưng ngay lúc đó có tổ tuần tra đi qua nên A bị bắt. Trường hợp này, dù A không dùng vũ lực cũng không de dọa dùng vũ lực ngay tức khắc thì cũng phải coi hành vi của A là cướp tài sản vì trong đêm tối, lại ở nơi vắng vẻ, nên mẹ con chị H đã lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Tuy nhiên, nếu A lại gặp chị H là trinh sát chuyên bắt cướp thì A phạm tội cưỡng đoạt tài sản, vì chị H không bị lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Như vậy, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt hai tội này khi người phạm tội thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực là người bị đe dọa có lâm vào tình trạng không thể chống cự được hay không. Dấu hiệu này hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình thực tế để đánh giá.
Mời các bạn đón đọc phần 3: Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
Bài viết chưa có bình luận nào.