Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
(kiemsat.vn) Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, được thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Sau đây là những quy định mới liên quan trực tiếp tới công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự .
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội tổ chức Hội thảo góp ý xây dựng chuyên đề bồi dưỡng nghiệp vụ
Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự
Các trường hợp VKS kiến nghị trong tố tụng dân sự
Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
Về sự tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của VKSND (các điều 21, 232, 296, 367 và 374)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự; theo đó, tiếp tục quy định các trường hợp VKS tham gia phiên tòa, phiên họp như Điều 21 BLTTDS hiện hành; đồng thời, bổ sung một số nội dung mới như sau:
– Bổ sung quy định VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS hiện hành về đương sự là “người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần”, thay bằng việc quy định cụ thể các đương sự là “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”;
– Quy định đối với trường hợp Kiểm sát viên được Viện trưởng phân công tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phiên tòa, phiên họp phúc thẩm mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp VKS kháng nghị phúc thẩm. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc xét xử, giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, kịp thời, đề cao trách nhiệm của Kiểm sát viên và của Viện kiểm sát.
Về việc phát biểu ý kiến của VKSND tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự
Điều 262 BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nội dung quy định về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm như sau:
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Về việc gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự quy định, tại các điều 262, 306, khoản 3 Điều 341, điểm g khoản 1 Điều 369 và điểm c khoản 1 Điều 375.
Về thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát
– Bổ sung quy định Kiểm sát viên khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS có nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này” (khoản 3 Điều 58);
– Quy định rõ: Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (khoản 6 Điều 97);
– Quy định rõ: Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (trong đó có Viện trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND cấp cao) có quyền yêu cầu người có đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết.
Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng VKSND
Quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân:
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
(Trích bài viết: “Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 5/2016)
Bài 2: Những nguyên tắc cơ bản và thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự.
Đón đọc Bài 3: Người tiến hành tố tụng dân sự.
Nghiên cứu và lập hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự
Khi ly hôn mà vợ chồng không cùng nơi cư trú, xác định Tòa án nào giải quyết?
-
1Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi
-
2Nguyên tắc suy đoán vô tội và những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
-
3Quyền tư pháp và tổ chức, hoạt động của VKSND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
-
4Trách nhiệm pháp lý không duy trì thực hiện hợp đồng thương mại khi vi phạm - một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
-
5Hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
-
6Bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa
Bài viết chưa có bình luận nào.