Hoàn thiện pháp luật trong tương trợ tư pháp về hình sự đáp ứng yêu cầu hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân

23/06/2025 13:59

(kiemsat.vn)
Thực tiễn những năm qua cho thấy, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần giải quyết kịp thời các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp về hình sự, cụ thể về nguyên tắc, phạm vi, trình tự, thủ tục… nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác này.

1. Thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

1.1. Quy định của pháp luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự

Tương trợ tư pháp về hình sự (TTTPHS) là hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia liên quan trong việc giải quyết vụ án hình sự. Theo cách hiểu truyền thống và được chấp nhận rộng rãi thì các vụ án hình sự cần thiết phải ủy thác tư pháp hình sự là những vụ án có yếu tố nước ngoài, có tính chất quốc tế hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Trong đó, TTTPHS được đặt ra trong các vụ án có yếu tố nước ngoài là chủ yếu.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) quy định VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTPHS tại Điều 32, Điều 33. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTTPHS được quy định tại phần thứ VIII - Hợp tác quốc tế gồm 2 chương (chương XXXV và chương XXXVI) với 18 Điều (từ Điều 491 đến Điều 508), trong đó, Điều 491 xác định TTTPHS thuộc phạm vi các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; Điều 492 quy định về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; Điều 493 quy định VKSND tối cao là cơ quan trung ương trong hoạt động TTTPHS; Điều 494 quy định giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được qua TTTPHS; Điều 495 quy định về việc tiến hành tố tụng của người có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài và của người có thẩm quyền của nước ngoài ở Việt Nam; Điều 496 về sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước ngoài; người làm chứng, người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại nước ngoài ở Việt Nam; Điều 497 quy định về việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án. Luật tương trợ tư pháp năm 2007 với tính chất là luật chuyên ngành, các nội dung về TTTPHS được quy định từ Điều 17 đến Điều 31.

Từ những quy định pháp luật trong lĩnh vực TTTPHS có thể thấy, những nội dung chính cần được quan tâm bao gồm: Các quy định về nguyên tắc TTTPHS; các quy định về phạm vi TTTPHS; các quy định về từ chối TTTPHS; các quy định về trình tự, thủ tục; các quy định về cơ quan trung ương trong hoạt động TTTPHS.

- Nguyên tắc TTTPHS được quy định tại Điều 492 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 và Điều 4 Luật tương trợ tư pháp năm 2007. Theo nội dung của hai điều luật này, hoạt động TTTPHS phải được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc “có đi có lại” nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Ghi nhận về nguyên tắc TTTPHS là cách tiếp cận truyền thống, nhất quán về mặt kỹ thuật và cả về nội dung trong cách diễn đạt của các luật.

Khảo sát các điều ước quốc tế đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên cho thấy quy định nghĩa vụ của quốc gia trong việc ghi nhận và bảo đảm các nguyên tắc quan trọng khác như nguyên tắc dành sự tương trợ tối đa, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc bảo đảm quyền con người…

- Về phạm vi TTTPHS được ghi nhận chủ yếu tại Điều 17 và Điều 20 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007. Trong đó, Điều 17 xác định rõ phạm vi TTTPHS nói chung, tuy nhiên Điều 20 lại quy định về những trường hợp Việt Nam ủy thác tư pháp hình sự cho phía nước ngoài nhưng loại trừ hoạt động “trao đổi thông tin”. Tuy nhiên, Điều 26 sử dụng thuật ngữ là “cung cấp thông tin” với diễn đạt là “theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài, Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam cung cấp các thông tin liên quan đến yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự hoặc bản sao bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với công dân của nước yêu cầu”. Vấn đề đặt ra là việc trao đổi thông tin và cung cấp thông tin nên được hiểu là hai khái niệm khác nhau hay Điều 26 là quy định cụ thể khoản 5 Điều 17 Luật này. Đồng thời Điều 17 quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng điểm d khoản 1 Điều 20 lại giới hạn các trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đối với người đang ở nước mà người đó mang quốc tịch.

Khảo sát các điều ước quốc tế đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên cho thấy phạm vi TTTPHS rộng hơn rất nhiều so với quy định pháp luật trong nước. Chẳng hạn các hoạt động như hỗ trợ lấy lời khai, bao gồm lấy lời khai qua cầu truyền hình; tiến hành khám xét, thu giữ; kiểm tra người, đồ vật, địa điểm; cung cấp bản gốc hoặc bản sao có xác nhận tài liệu, hồ sơ, chứng cứ có liên quan bao gồm hồ sơ ngân hàng; xác định hoặc truy tìm tài sản do phạm tội mà có và phương tiện phạm tội; phong tỏa tài sản có được từ việc thực hiện tội phạm có thể bị thu hồi hoặc tịch thu; thu hồi, tịch thu tài sản do phạm tội mà có… được ghi nhận trong các điều ước quốc tế từ khoảng năm 2003 đến nay.

- Các trường hợp từ chối TTTPHS được quy định tại Điều 21 và có thể xếp thành 03 loại: (1) Các trường hợp trái với nguyên tắc TTTPHS (không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam; gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia); (2) Các trường hợp liên quan đến nguyên tắc của tố tụng hình sự (liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam; liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam); (3) Các trường hợp liên quan đến “tội phạm kép” (liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam).

- Về trình tự, thủ tục TTTPHS:  Điều 22 quy định về thủ tục ủy thác tư pháp hình sự cho nước ngoài; Điều 23 quy định về thủ tục tiếp nhận và xử lý ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài; các Điều 24 đến Điều 30 quy định thủ tục đối với một số hoạt động TTTPHS cụ thể và Điều 499 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, xử lý yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ… Các quy định về thủ tục TTTPHS được đánh giá là chưa đủ cụ thể đối với các hoạt động TTTPHS phi truyền thống và thiếu vắng các quy định về thủ tục trong trường hợp áp dụng theo nguyên tắc có đi có lại.

- Quy định về cơ quan trung ương trong hoạt động TTTPHS: Khoản 2 Điều 493 BLTTHS năm 2015 quy định VKSND tối cao là cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động TTTPHS và những hoạt động hợp tác quốc tế khác theo quy định của pháp luật. Điều 64 Luật tương trợ tư pháp năm 2007 quy định trách nhiệm của VKSND tối cao, đó là: Tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các ủy thác tư pháp về hình sự; xem xét, quyết định việc thực hiện và yêu cầu VKSND hoặc Cơ quan điều tra có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự; từ chối hoặc hoãn thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự theo thẩm quyền; thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp theo thẩm quyền; hướng dẫn VKSND các cấp thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự… Việc xác định cơ quan trung ương trong luật chuyên ngành vừa bảo đảm thống nhất với BLTTHS, đồng thời giúp xác định rõ vị trí, vai trò của VKSND tối cao trong hoạt động TTTPHS. Mặt khác, với quy định của Điều 494 BLTTHS thì có thể hiểu là các tài liệu đồ vật là kết quả của ủy thác tư pháp hình sự có thể được coi là chứng cứ thì nhất thiết phải được thực hiện thông qua cơ quan trung ương và bằng con đường TTTPHS.

Việt Nam - Singapore ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự. (Ảnh minh họa)

1.2. Thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

- Kết quả tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTPHS của Việt Nam ủy thác tư pháp hình sự cho nước ngoài:

Theo số liệu thống kê của VKSND tối cao từ năm 2008 - 2023, VKSND tối cao đã tiếp nhận, giải quyết 2.798 yêu cầu TTTPHS của các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước ủy thác tư pháp hình sự cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện. Các ủy thác tư pháp chủ yếu do các cơ quan tố tụng của những địa phương trọng điểm như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng… ủy thác tư pháp hình sự của Việt Nam chủ yếu gửi các nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông (Trung Quốc), Liên bang Nga, Australia, Singapore, Hoa Kỳ… Trong tổng số các yêu cầu gửi đi, khoảng 75% là các nước có ký hiệp định TTTPHS với Việt Nam. Thực tế này cho thấy việc ký các hiệp định TTTPHS tạo thuận lợi rất lớn cho Việt Nam ủy thác tư pháp về hình sự cho phía nước ngoài.

Trong 05 năm gần đây, số lượng ủy thác tư pháp hình sự của Việt Nam gửi ra nước ngoài ngày càng tăng, trung bình năm sau so với năm trước tăng khoảng 28,46%, riêng năm 2019 tăng gần 51% so với năm 2018. Kết quả thực hiện trong năm 2018, Việt Nam gửi đi 224 trường hợp ủy thác tư pháp hình sự thì chỉ có 135 trường hợp nhận được kết quả, 89 trường hợp chưa có kết quả được chuyển thành số liệu của năm tiếp theo.

Nội dung các hoạt động TTTPHS do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ủy thác tư pháp cho nước ngoài cũng rất đa dạng, chủ yếu là các hoạt động được quy định tại Điều 17, Điều 20 Luật tương trợ tư pháp năm 2007. Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp hình sự của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam gửi nước ngoài chủ yếu tập trung vào các hoạt động tương trợ tư pháp truyền thống như lấy lời khai, xác minh lý lịch, nhân thân; thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu nước ngoài cung cấp chứng cứ… Đây là những hoạt động chủ yếu diễn ra ở giai đoạn điều tra, truy tố. Hoạt động tống đạt giấy tờ, tài liệu chiếm tỉ lệ không đáng kể (5,6% cho tất cả các giai đoạn). Trong khi đó, hoạt động chuyển giao để yêu cầu nước ngoài truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm tỉ lệ chưa đến 1%. Cũng trong giai đoạn này, các hoạt động TTTPHS khác mà Việt Nam gửi đi nước ngoài khoảng hơn 161 trường hợp. Đây là những hoạt động liên quan đến những hình thức hoạt động mới, phi truyền thống, chưa có tiền lệ như đề nghị nước ngoài hỗ trợ thu hồi tài sản do phạm tội mà có; thu xếp cho người tiến hành tố tụng của Việt Nam qua nước ngoài để thực hiện tương trợ; thu thập chứng cứ dữ liệu điện tử…

- Kết quả tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTPHS của nước ngoài ủy thác tư pháp hình sự cho Việt Nam:

Từ năm 2008 đến năm 2023, VKSND tối cao đã tiếp nhận, giải quyết 1.246 yêu cầu TTTPHS của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Với tư cách là cơ quan trung ương TTTPHS, VKSND tối cao đã gửi các ủy thác tư pháp đến các cơ quan thực thi theo quy định chủ yếu là Cơ quan điều tra Bộ Công an (C03), các cơ quan tiến hành tố tụng của Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… Trong đó ủy thác tư pháp với những quốc gia có hiệp định TTTPHS với Việt Nam (chiếm 87%), tập trung vào một số quốc gia như Liên bang Nga, Đài Loan, Hàn Quốc, Úc…

Nội dung TTTPHS phía nước ngoài ủy thác tư pháp cho Việt Nam chủ yếu liên quan đến thu thập, cung cấp chứng cứ, lấy lời khai; tống đạt giấy tờ, tài liệu; yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự và các yêu cầu khác (triệu tập người làm chứng, người giám định, cử người có thẩm quyền tham gia thực hiện tương trợ tư pháp…).

Tương tự trường hợp Việt Nam ủy thác cho nước ngoài, trong thời gian 2008 - 2023, các hoạt động Việt Nam nhận được đề nghị hỗ trợ chủ yếu là thu thập chứng cứ, lấy lời khai và tống đạt giấy tờ, tài liệu. Hoạt động chuyển giao để Việt Nam truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm tỉ lệ 12,9% (gần 150/1.148 trường hợp) cho thấy tình trạng người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài sau đó trở về Việt Nam diễn ra khá phức tạp.

Thực tiễn TTTPHS đã phát sinh nhiều nội dung yêu cầu TTTPHS mới và lần đầu được thực hiện như cho phép người có thẩm quyền của nước ngoài tham gia vào quá trình thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp; lấy lời khai làm chứng qua cầu truyền hình… Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã phối hợp với Bộ Công an tiếp và làm việc với nhiều đoàn công tác của các Điều tra viên, Công tố viên đến từ Hoa Kỳ, Úc, Đài Loan… sang Việt Nam với mục đích liên quan đến việc thực hiện ủy thác tư pháp hình sự của nước ngoài.

Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp hình sự của nước ngoài cho thấy trong một số lĩnh vực tội phạm, kết quả giải quyết ủy thác tư pháp của Việt Nam cho nước ngoài chiếm tỉ lệ cao. Điển hình như trong tương trợ tư pháp liên quan đến Tội rửa tiền, giai đoạn 2015 - 2019, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận được 20 yêu cầu, đã thực hiện 16 yêu cầu (tỉ lệ 80%), 04 yêu cầu đang thực hiện, không có yêu cầu nào bị từ chối. Điều này cho thấy Việt Nam luôn nêu cao tinh thần hợp tác, thiện chí, tích cực khi nhận được ủy thác tư pháp của nước ngoài.

Trong thực tiễn TTTPHS, có những trường hợp giữa Việt Nam và phía nước ngoài chưa ký điều ước quốc tế về TTTPHS nhưng đã vận dụng linh hoạt nguyên tắc có đi có lại, góp phần giải quyết vụ án hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm, điển hình là vụ án Huỳnh Ngọc Sỹ.

2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự

- Hoàn thiện quy định về nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự:

Đối với những nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 492 BLTTHS, Điều 4 Luật tương trợ tư pháp cần tiếp tục được ghi nhận và có những quy định cụ thể hơn về nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc có đi có lại ngày càng tỏ ra hiệu quả trong việc thực hiện các ủy thác tư pháp hình sự bởi lẽ xét trên một khía cạnh nào đó, hoạt động TTTPHS phần nào cho thấy sự nhượng bộ về chủ quyền giữa các bên. Khi không có thỏa thuận quốc tế, các bên sẽ áp dụng nguyên tắc này nhưng kể cả khi có điều ước quốc tế, việc nhất quán và đề cao “tinh thần” có đi có lại cũng giúp các bên thực hiện tốt hơn các ủy thác tư pháp của mỗi bên. Do đó, trong pháp luật TTTPHS cần phải có những quy định cụ thể về nguyên tắc có đi có lại vẫn trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ tích cực; và quy định về các trường hợp, điều kiện, cơ quan có thẩm quyền áp dụng nguyên tắc có đi có lại.

Đồng thời, cần bổ sung những nguyên tắc cốt lõi của hoạt động TTTPHS như nguyên tắc tội phạm kép; nguyên tắc dành sự tương trợ tối đa; nguyên tắc bảo đảm quyền con người. Việc ghi nhận nguyên tắc tội phạm kép nhằm phù hợp với tập quán rất cổ xưa của luật hình sự đó là “nullum crimen sine lege” (không có tội nếu không có luật), đồng thời, nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Có ý kiến cho rằng việc ghi nhận nguyên tắc này liệu có ảnh hưởng đến hiệu quả và làm gia tăng các trường hợp từ chối TTTPHS hay không? Do đó, nguyên tắc tội phạm kép nên được sử dụng một cách linh hoạt đối với những vấn đề mang tính thủ tục; những vấn đề không mang tính thủ tục (như trao đổi thông tin, cung cấp thông tin…) thì không cần xem xét yếu tố tội phạm kép. Cách tiếp cận này cũng phù hợp với tinh thần của UNTOC hay UNCAC… Đối với nguyên tắc dành sự tương trợ tối đa và nguyên tắc bảo đảm quyền con người nếu được ghi nhận là cụ thể hóa cam kết trong các điều ước quốc tế đa phương của Việt Nam và là cơ sở để sửa đổi, bổ sung những điều khoản về phạm vi TTTPHS và các trường hợp từ chối TTTPHS.

- Hoàn thiện quy định về phạm vi tương trợ tư pháp hình sự:

Phạm vi TTTTPHS theo quy định của Luật tương trợ tư pháp được đánh giá là hẹp so với hầu hết các điều ước quốc tế đa phương và hiệp định TTTPHS mà Việt Nam ký kết, tham gia. Hiện nay, với khoảng 29 hiệp định tương trợ tư pháp là sự phản ánh nhu cầu, mức độ hợp tác giữa Việt Nam các bên liên quan, khi có yêu cầu ủy thác tư pháp hình sự thì các hiệp định này sẽ là cơ sở pháp lý trực tiếp để thực hiện. Việc mở rộng các trường hợp có thể cung cấp TTTPHS là cần thiết nhưng cũng không phải là sự ghi nhận tất cả các cam kết song phương vì điều này sẽ làm triệt tiêu ý nghĩa của việc ký kết các điều ước quốc tế. Do đó, việc mở rộng phạm vi này cần tiệm cận với phạm vi TTTPHS trong các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam đã tham gia như UNTOC hay UNCAC.

- Hoàn thiện các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp hình sự:

Về phương diện kỹ thuật, nghiên cứu xây dựng các trường hợp từ chối TTTPHS theo hai hướng: (1) Các trường hợp phải từ chối và (2) Các trường hợp có thể từ chối TTTPHS. Đối với trường hợp phải từ chối bao gồm: Không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam; liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam; yêu cầu tương trợ bị từ chối khi gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia... Đồng thời cách tiếp cận đối với các trường hợp từ chối này cần giới hạn theo hướng không phù hợp với nguyên tắc của pháp luật Việt Nam, không phải là tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự và bổ sung các trường hợp từ chối liên quan đến tội phạm chính trị; tội phạm quân sự... Đối với trường hợp có thể từ chối, cần nghiên cứu xây dựng và bổ sung các trường hợp Việt Nam có thể từ chối thực hiện ủy thác tư pháp hình sự liên quan đến nguyên tắc có đi có lại và trường hợp vượt quá nguồn lực của Việt Nam. Từ thực tiễn tiến hành các hoạt động TTTPHS trong 15 năm qua cho thấy, có nhiều trường hợp việc ủy thác tư pháp không có kết quả do nước được yêu cầu không tuân thủ nguyên tắc này. Do đó, trong các trường hợp từ chối tương trợ trong Luật tương trợ tư pháp về hình sự cần ghi nhận nội dung này như là sự đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Về từ chối liên quan đến nguồn lực là ghi nhận được quy định trong Hiệp định TTTPHS của ASEAN; việc đảm bảo các nguồn lực con người, phương tiện, cơ sở sở vật chất nhằm thực hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là rất cần thiết. Bởi lẽ, kinh nghiệm của các nền tư pháp trên thế giới cho thấy sự khan hiếm nguồn lực là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp. Do đó, trong các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp về hình sự cần cân nhắc trường hợp yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự vượt quá khả năng nguồn lực của Việt Nam.

- Hoàn thiện trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp hình sự:

Trên cơ sở Điều 22, Điều 23 Luật tương trợ tư pháp, cần xây dựng quy trình, thủ tục cho từng hoạt động theo hướng: Xây dựng quy trình, thủ tục trường hợp Việt Nam ủy thác tư pháp hình sự cho nước ngoài; quy trình, thủ tục trường hợp nước ngoài ủy thác tư pháp hình sự cho Việt Nam; quy trình, thủ tục trong trường hợp áp dụng theo cơ chế có đi có lại và quy trình, thủ tục trong một số hoạt động phi truyền thống (như lấy lời khai qua cầu truyền hình; thu thập dữ liệu điện tử…)

- Hoàn thiện quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Trung ương tương trợ tư pháp hình sự:

Trên cơ sở Điều 493 BLTTHS, cần hoàn thiện quy định và khẳng định VKSND tối cao là cơ quan trung ương trong hoạt động TTTPHS của Việt Nam. Đồng thời, điều luật cần làm rõ 03 nội dung chính, theo hướng: (i) Ủy thác tư pháp hình sự phải được gửi qua cơ quan trung ương là VKSND tối cao; (ii) Trường hợp Việt Nam và phía nước ngoài có quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp (hoặc thỏa thuận) thì ủy thác tư pháp hình sự được gửi qua cơ quan được thỏa thuận trong hiệp định (hoặc thỏa thuận) đó; trường hợp Việt Nam và phía nước ngoài không có điều ước quốc tế thì gửi qua con đường ngoại giao hoặc nước ngoài có thể gửi qua cơ quan VKSND tối cao.

Dương Đình Công

Pháp luật về tiền ảo nhìn từ khía cạnh thuế thu nhập cá nhân

(Kiemsat.vn) - Hiện nay, tại Việt Nam, khối lượng giao dịch tài sản ảo ngày càng lớn và có ảnh hưởng nhất định đến kinh tế - xã hội, gây ra những rủi ro trong quản lý điều hành kinh tế vĩ mô; bao gồm thất thoát trong thu thuế nói chung và thất thu thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Do đó, việc nghiên cứu tiền ảo và những vấn đề liên quan đến thu thuế thu nhập cá nhân trong các hoạt động giao dịch tiền ảo là vấn đề cần thiết.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang