Nguyễn Văn A có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(kiemsat.vn) Theo tác giả Nguyễn Văn A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 139 BLHS vì đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của B.
Quy định mới về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Nguyễn Văn A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Giả Công an, dọa chủ thuê bao điện thoại chiếm đoạt hơn 6 tỷ đồng
Nguyễn Văn A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 139 BLHS (Điều 175 BLHS 2015). Bởi vì, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành cơ bản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Hành vi của A:
– Thể hiện sự gian dối như A không có điều kiện mua điện thoại nhưng nói dối với B là mua và hẹn B đem đến nơi để giao, A bảo B lấy điện thoại ra để xem, A bảo B chỉ cách sử dụng, A kiểm tra và cùng anh B có trao đổi và đưa qua lại vài lần chiếc điện thoại để chỉ các chức năng của máy điện thoại, “Anh đi lấy chìa khóa”…, làm cho B tin tưởng “giả hóa thật”, A lấy sự giả dối làm phương tiện để A tiếp cận được tài sản và chiếm đoạt tài sản.
– Thể hiện sự xảo quyệt như A đã chuẩn bị trước thời gian (19 giờ), địa điểm là nhà bà Mai Thị Tân, ở gần khu vực cầu S, cửa khóa, có nhiều lối đi sau nhà, nên A đã dẫn anh B và anh C đến đó nơi kín đáo, phức tạp, dễ lẩn tránh, khó phát hiện sau khi A chiếm đoạt được tài sản. Chính sự xảo quyệt này của A làm B không truy tìm được A để A dễ dàng trốn thoát sau khi chiếm đoạt tài sản của B.
Hành vi nhanh chóng tẩu thoát của A ở đây không thể hiện rõ nét, A không nhanh chóng tẩu thoát mà do địa hình khu nhà bà Tân phức tạp nên A dễ lẩn tránh, làm B và C khó truy tìm. Đây là điều kiện để A chiếm đoạt tài sản của B. Không có dấu hiệu nhanh chóng tẩu thoát theo cấu thành cơ bản của tội cướp giật tài sản theo Điều 136 BLHS.
Qua đó cho thấy, hành vi của A chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6S của B đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS. Hành vi phạm tội của A có một tình tiết định khung hình phạt là “dùng thủ đoạn xảo quyệt” theo điểm đ khoản 2 Điều 140 BLHS.
Như vậy, hành vi A chiếm đoạt chiếc điện thoại di động Iphone 6S của B có giá trị 13.500.000 đồng đã phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 139 BLHS.
Thanh Nghị
Làm sao để chống lại cú lừa mạo danh cơ quan thực thi pháp luật?
Lừa đảo hẹn hò qua mạng internet và lừa đảo trúng thưởng nhằm chiếm đoạt tài sản
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
-
7Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam
Bài viết chưa có bình luận nào.