Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

29/01/2025 01:28

(kiemsat.vn)
Thông qua việc phân tích cấu thành tội phạm của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, tác giả chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định về dấu hiệu gây thiệt hại, những quy định không còn phù hợp với thực tiễn để kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

Theo Điều 358 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) thì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đòi, nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc lợi ích phi vật chất, dưới mọi hình thức để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, do người từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (tương tự như tội nhận hối lộ và tội giả mạo trong công tác) là tội phạm có cấu thành hình thức. Theo đó, trong mặt khách quan của tội phạm này chỉ có hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan như: Hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của các tội phạm tham nhũng với hậu quả của các tội phạm tham nhũng, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội... không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi tương tự như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và các tội phạm khác có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó một cách trái phép nhằm đạt được mục đích mà họ đặt ra. Nếu không sử dụng chức vụ, quyền hạn thì không thực hiện được hành vi để đạt được mục đích của mình. Vì vậy, khi xác định một người có lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có những quyền gì.

Ngoài lợi ích vật chất như tiền, tài sản và lợi ích vật chất khác như trước đây theo BLHS năm 1999; cấu thành tội phạm này còn được bổ sung thêm các lợi ích phi vật chất (có thể là lợi ích về tinh thần, về tình cảm, tình dục...). Việc sửa đổi, bổ sung này là cần thiết, phù hợp với Công ước về chống tham nhũng của Liên hợp quốc và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm; khắc phục tình trạng lách luật để trốn tội. Đây là những lợi ích tuy không có tính hữu hình và quy giá trị thành tiền nhưng có khả năng đem lại sự hài lòng, sự thỏa mãn cho người nhận, nên có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động thực thi công vụ, nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Theo Điều 3 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ (gọi tắt là Nghị quyết số 03/2020) thì: “… 3. “Lợi ích vật chất khác” quy định tại các điều 354, 358, 364 và 366 của BLHS là lợi ích vật chất không phải là tài sản quy định tại Điều 105 của Bộ luật Dân sự. Ví dụ: ... tài trợ kinh phí đi du học, đi du lịch,... 4. “Lợi ích phi vật chất” quy định tại điểm b khoản 1 các điều 354, 358, 364, 365 và 366 của BLHS năm 2015 là những lợi ích không phải lợi ích vật chất. Ví dụ: ... tặng thưởng, đề xuất tặng thưởng các danh hiệu, giải thưởng; bầu, cử, bổ nhiệm chức vụ; nâng điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài; hối lộ tình dục,...”.

Lỗi của người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là lỗi cố ý trực tiếp, tức là “người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”. Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.

Hình phạt tối đa của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi là tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội này còn bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm và có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Nguyên tắc xử lý tội phạm tham nhũng nói chung và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi nói riêng, theo Điều 5 Nghị quyết số 03/2020 thì: Việc xử lý tội phạm phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự. Xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 BLHS năm 2015 đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau: “a) Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; b) Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm; c) Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra; d) Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra”.

Trường hợp người sử dụng tài sản do lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi mà có để thực hiện một trong các hành vi rửa tiền quy định tại Điều 324 BLHS năm 2015 thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội rửa tiền theo quy định tại Điều 324 BLHS năm 2015. Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi số tiền 5.000.000.000 đồng, sau đó A dùng số tiền này đầu tư, kinh doanh bất động sản để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của số tiền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi mà có. Trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi quy định tại Điều 358 và Tội rửa tiền quy định tại Điều 324 BLHS năm 2015.

Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, nhưng mỗi lần trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận đều dưới mức tối thiểu quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành vi đó chưa có lần nào bị xử lý kỷ luật và chưa hết thời hiệu xử lý kỷ luật, nếu tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 358 BLHS năm 2015, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi theo tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận.

Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm và tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận của các lần vi phạm thuộc khung hình phạt tăng nặng, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận, họ còn bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: (1) Nếu tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận thuộc khoản 2 Điều 358 BLHS năm 2015 thì người phạm tội bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”; (2) Nếu tổng trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận thuộc khung hình phạt tăng nặng khác thì người phạm tội bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Trường hợp người phạm tội vừa đòi, nhận hoặc sẽ nhận, vừa gây thiệt hại về tài sản mà trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận và trị giá tài sản thiệt hại thuộc các điểm trong cùng một khung hình phạt thì truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo các điểm tương ứng của khung hình phạt đó. Trường hợp trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận và trị giá tài sản thiệt hại thuộc các khung hình phạt khác nhau thì truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khung hình phạt cao hơn.

Trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận làm căn cứ xử lý hình sự được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp tội phạm thực hiện liên tục, kéo dài thì trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận được xác định tại thời điểm kết thúc hành vi phạm tội. Đối với trường hợp hành vi phạm tội đang diễn ra nhưng bị phát hiện, ngăn chặn thì trị giá tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận được xác định tại thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, ngăn chặn.

Thiệt hại tài sản làm căn cứ để xử lý hình sự tùy từng trường hợp cụ thể được xác định như sau: (1) Trường hợp thiệt hại xảy ra tại thời điểm tội phạm được thực hiện thì thiệt hại được xác định tại thời điểm này; đối với tội phạm liên tục, kéo dài thì thiệt hại được xác định tại thời điểm tội phạm được phát hiện ngăn chặn hoặc tội phạm kết thúc. (2) Trường hợp thiệt hại xảy ra hoặc kéo dài sau khi tội phạm được thực hiện hoặc sau khi tội phạm đã kết thúc thì thiệt hại được xác định tại thời điểm thiệt hại được ngăn chặn. (3) Trường hợp không thể xác định được thiệt hại theo hướng dẫn nêu trên thì thiệt hại được xác định tại thời điểm khởi tố vụ án. Việc xem xét trách nhiệm dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phải xem xét áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nếu các tài sản này chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Tòa án xem xét, quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu hủy hoặc buộc trả lại, bồi thường cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật đối với tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, bao gồm: (1) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; (2) Tiền, tài sản mà họ đòi, nhận hoặc sẽ nhận; (3) Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; (4) Khoản thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội; (5) Lợi nhuận, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản do phạm tội mà có; (6) Tài sản khác theo quy định của pháp luật. Tài sản thuộc trường hợp bị tịch thu sung ngân sách nhà nước không còn tại thời điểm giải quyết vụ án thì Tòa án quyết định tịch thu trị giá tài sản theo kết luận định giá của cơ quan có thẩm quyền.

Trường hợp tài sản có nguồn gốc từ tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi đã được nhập vào khối tài sản thuộc sở hữu chung thì Tòa án chỉ tịch thu hoặc buộc trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp phần tài sản có nguồn gốc từ tội phạm. Lợi nhuận thu được từ khối tài sản chung này cũng được chia theo tỷ lệ để tịch thu hoặc trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Một số hạn chế, bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, hiện nay, dấu hiệu “gây thiệt hại về tài sản” chỉ được quy định là dấu hiệu định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự tại các khoản 2, 3, 4 Điều 358 BLHS năm 2015 với giá trị tài sản bị thiệt hại thấp nhất là 1.000.000.000 đồng. Khoản 1 Điều 358 BLHS năm 2015 chỉ quy định dấu hiệu giá trị tài sản bị chiếm đoạt (và dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật hoặc đã bị kết án), mà không quy định dấu hiệu “gây thiệt hại về tài sản”. Điều này có thể dẫn đến sự “không công bằng” giữa các trường hợp phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. Vì vậy, cần bổ sung dấu hiệu này vào khoản 1 Điều 358 BLHS năm 2015 mới phù hợp. Bởi lẽ, gây thiệt hại về tài sản là dấu hiệu độc lập với dấu hiệu giá trị tài sản bị chiếm đoạt, cụ thể như sau:

“Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đòi, nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây dưới mọi hình thức để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

b) Lợi ích phi vật chất.

…”.

Thứ hai, một số quy định còn thiếu nên chưa điều chỉnh hết những quan hệ xã hội mới phát sinh hoặc không còn phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng, cụ thể là: Trường hợp người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi gây hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc sau khi phạm tội đã trốn ra nước ngoài. Vì vậy, cần bổ sung các dấu hiệu này là tình tiết định khung tăng nặng.

Đồng thời, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cần bổ sung vào tội này cấu thành tội phạm giảm nhẹ theo hướng: Người phạm tội này chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và xử lý bằng hình thức khác, cụ thể như sau:

“Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:

a) Có tổ chức;

đ) Trốn ra nước ngoài.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:

c) Làm chết người.

5. Người phạm tội này chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và xử lý bằng hình thức khác”.

Thứ ba, mức phạt tiền bổ sung áp dụng đối với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ thấp và là 01 trong 03 tội có mức phạt tiền thấp nhất trong 07 tội phạm tham nhũng, chỉ “từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”, là không còn phù hợp với thực tiễn, cũng như so với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng và giá trị tài sản mà người phạm tội thu được hoặc chiếm đoạt; không đáp ứng yêu cầu mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW và mục đích trừng trị nghiêm khắc, có hiệu quả người phạm tội, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, có ý thức phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Vì vậy, tác giả đề nghị tăng mức phạt tiền, bổ sung vào khoản 5 Điều 358 BLHS năm 2015 theo hướng tăng cả mức tối thiểu và mức tối đa, cụ thể như sau: … “5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng”.

Đỗ Đức Hồng Hà

Kiên quyết khắc phục tâm lý nể nang, ngại va chạm, dẫn đến bỏ lọt vi phạm

(Kiemsat.vn) - VKSND tối cao (Vụ 10) vừa ban hành hướng dẫn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật năm 2025.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang