Xây dựng nền tư pháp liêm chính phụng sự Tổ quốc và Nhân dân ở Việt Nam hiện nay

28/05/2025 09:51

(kiemsat.vn)
Xây dựng nền tư pháp liêm chính phụng sự Tổ quốc và Nhân dân ở Việt Nam hiện nay là vấn đề cấp bách. Đây cũng là yêu cầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,… với giá trị cốt lõi là liêm chính - hiện thân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

1. Khái quát chung về nền tư pháp liêm chính

Nền tư pháp của một quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận về quyền tư pháp và cơ quan thực thi quyền tư pháp. Khái niệm về quyền tư pháp chưa được định nghĩa hoặc giải thích một cách thống nhất, song, dù diễn đạt theo góc độ nào, thì mục đích của quyền tư pháp và thực thi quyền tư pháp vẫn là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bên cạnh việc bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội”. Nền tư pháp bao gồm trong đó “hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động điều tra của các Cơ quan điều tra, hoạt động công tố và kiểm sát của Viện kiểm sát; hoạt động của các cơ quan Thi hành án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và kể cả một số hoạt động khác nhằm giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh trong thực tế nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nước, của tổ chức và của công dân”, duy trì trật tự pháp luật.

Xuất phát từ bản chất của nền tư pháp (thực hiện quyền lực nhà nước - những thẩm quyền trực tiếp của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đến các quyền cơ bản nhất của con người, quyền công dân như quyền tài sản, quyền tự do, quyền sống,…), hoạt động tư pháp cần và phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực khác nhau, đặc biệt là cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên, hiệu quả từ chính các cơ quan quyền lực nhà nước và xã hội; nền tư pháp liêm chính luôn đòi hỏi phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Muốn xây dựng nền tư pháp liêm chính, đòi hỏi: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân (TAND), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”; “tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đồng thời, cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp thuộc nền tư pháp phải thạo chính trị, giỏi chuyên môn, tinh thông pháp luật, chuyên nghiệp và liêm chính: “Phẩm chất của nền tư pháp liêm chính cần phải có đó là: Công bằng; nghiêm minh; minh bạch; trách nhiệm; khách quan; trung thực; đạo đức”. Vì vậy, bên cạnh hoạt động thực thi pháp luật, hoạt động tư pháp còn là việc hướng dẫn, giải thích cho người dân, cũng như các tổ chức trong và ngoài nước nhận thức, thực hiện đầy đủ nhất về hệ thống pháp luật. Liên quan đến yêu cầu này, nền tư pháp phải được tổ chức theo hướng chuyên nghiệp, dân chủ, hiện đại, không thiên lệch giữa các cơ quan thực thi quyền tư pháp, không quan liêu, cửa quyền và có sự tham gia giám sát của người dân, thực hành dân chủ rộng rãi trên các mặt của đời sống xã hội.

Nhằm khắc phục những điểm hạn chế của nền tư pháp đa ngành, đa lĩnh vực, cần nghiêm túc đánh giá lại một cách khách quan hoạt động của Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án,… Khi đánh giá hoạt động của nền tư pháp, cần hết sức coi trọng việc đánh giá hiệu quả trong hoạt động bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, mức độ có trách nhiệm với Nhân dân.

Nền tư pháp liêm chính phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, có trách nhiệm với dân, nghĩa là khi người dân tuân theo pháp luật thì họ có quyền tham gia vào việc kiểm tra tính đúng đắn của pháp luật; nghiêm cấm mọi thái độ và hành động quan liêu, cửa quyền, hách dịch, vô trách nhiệm đối với Nhân dân trong thực thi công vụ. Đây chính là hiện thân Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân: “Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN mang bản chất của quyền lực nhân dân”.

2. Một số kết quả nổi bật của nền tư pháp Việt Nam thời gian qua

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về tư pháp:

“Nền tư pháp đóng góp kịp thời và tích cực trong triển khai, thể chế hóa các nội dung chính sách về xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật theo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư”. Trước đó, “Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013 và gần 70 luật, pháp lệnh liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp - đổi mới bao trùm của Hiến pháp được thể hiện trên ba định hướng lớn: Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật; tăng cường kiểm soát quyền lực tư pháp; xác lập nhiều quyền và nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, tiệm cận với tư pháp tiến bộ thế giới”…; Quốc hội đã ban hành đồng bộ các luật về tổ chức các cơ quan tư pháp; luật về nội dung, hình thức tư pháp; các luật về bổ trợ tư pháp… Ngoài ra, các cơ quan tư pháp ban hành các chỉ thị chuyên đề, kế hoạch và văn bản, thông báo kết luận để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, của Quốc hội về cải cách tư pháp và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành; tích cực triển khai thực hiện kế hoạch của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới; nghiên cứu xây dựng đề án về hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong thực thi công vụ; tích cực tham gia chương trình xây dựng luật; thực hiện nghiêm các vấn đề được Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu; chú trọng việc trả lời, giải quyết kiến nghị của cử tri, thể hiện tính cầu thị, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn những thách thức như Viện trưởng VKSND tối cao dự báo: “Trong thời gian tới tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm trên không gian mạng, tội phạm phi truyền thống; các tranh chấp dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại kể cả có yếu tố nước ngoài ngày càng phức tạp, đa dạng. Trong khi đó, một số quy định của pháp luật trong các lĩnh vực này còn chưa hoàn thiện, còn một số bất cập”.

Thứ hai, hoàn thiện tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp:

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp năm 2013, các cơ quan tư pháp là những cơ quan thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc giải quyết tranh chấp và xử lý các vụ vi phạm pháp luật, đảm bảo tính công bằng và đúng đắn của quyết định và phán quyết của mình, cũng như bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các bên liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật.

Tòa án nhân dân, VKSND đổi mới tổ chức bộ máy theo mô hình 04 cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, VKSND tối cao, TAND cấp cao, VKSND cấp cao, TAND cấp tỉnh, VKSND cấp tỉnh, TAND cấp huyện, VKSND cấp huyện. Viện kiểm sát nhân dân phân định hợp lý thẩm quyền giữa Viện trưởng và Kiểm sát viên; tăng cường chức năng điều tra, truy tố các tội xâm phạm tư pháp, gắn điều tra và truy tố trong Viện kiểm sát; tăng thẩm quyền cho VKSND tối cao và gắn với thẩm quyền cao nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Tòa án nhân dân phân định hợp lý thẩm quyền giữa Chánh án và Thẩm phán ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa; các Tòa án đổi mới tổ chức phiên tòa theo hướng tiếp thu hạt nhân hợp lý của mô hình tranh tụng; đổi mới nội dung và hình thức tố tụng… Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với cơ quan tư pháp bằng nhiều hình thức.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ:

Việc đổi mới hệ thống ngạch chức danh tư pháp từ cấp hành chính (huyện, tỉnh, tối cao) sang ngạch nghiệp vụ (sơ cấp, trung cấp, cao cấp, tối cao); mỗi cấp có thể bố trí nhiều ngạch Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án; việc ban hành quy tắc chuẩn mực đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án,… là cơ sở để công chức, chức danh tư pháp tự tu dưỡng, rèn luyện, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tăng cường liêm chính tư pháp, là căn cứ để Nhà nước và xã hội giám sát, đánh giá năng lực và phẩm chất của cán bộ, công chức giữ chức danh tư pháp.

Cùng với đó, cơ sở vật chất được tăng cường bảo đảm các điều kiện hoạt động cho cơ quan tư pháp. Công tác đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp và xây dựng các cơ sở đào tạo luật, đào tạo các chức danh tư pháp ngày càng được quan tâm. Nhiều trụ sở làm việc được đầu tư xây dựng; tăng cường phương tiện làm việc, trang thiết bị nghiệp vụ và phương tiện đi lại, nhất là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số phục vụ thực thi công vụ trong nền tư pháp.

Bên cạnh những thành tựu trên, trong thời gian qua, hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn bộc lộ những hạn chế: Việc tiếp cận Tòa án của người dân, doanh nghiệp trong giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại còn gặp khó khăn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến thực tế có nhiều người dân và doanh nghiệp chọn các phương án giải quyết tranh chấp khác thay vì tiếp cận Tòa án; “Công chức có chức danh tư pháp, Kiểm sát viên các ngạch của VKSND các cấp chưa đủ về số lượng để đáp ứng được yêu cầu khối lượng công việc hằng năm tăng thêm, đã tạo áp lực và khó khăn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Chế độ, chính sách đối với ngành Kiểm sát còn bất cập; kinh phí chi cho hoạt động điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đặc thù của VKSND vẫn áp dụng theo kinh phí quản lý hành chính, chưa phù hợp với hoạt động đấu tranh tội phạm”.

3. Một số giải pháp xây dựng nền tư pháp liêm chính phụng sự Tổ quốc và Nhân dân

Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn xã hội, dựa trên những thành tựu, hạn chế đã nêu, đặt ra yêu cầu cấp bách xây dựng nền tư pháp liêm chính trong điều kiện hiện nay theo hướng:

Thứ nhất, xây dựng nền tư pháp trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, hướng đến xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Theo đó, để tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, Đảng tập trung vào hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, giải pháp chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp trong thời kỳ mới, vì nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

Hiện thực hóa định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 (giai đoạn mới) được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng như: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030),  Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới,...

Thứ hai, xây dựng nền tư pháp có khả năng phòng ngừa, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm; triển khai thực hiện chủ trương “tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” được nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6; rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành tạm giữ, tạm giam và cơ quan Thi hành án hình sự, dân sự gắn với cải cách thủ tục hành chính; chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của Thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp; nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả trong thực thi công vụ của hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Thứ ba, bảo đảm chế độ tiền lương cho cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp ở mức khá tốt so với mặt bằng chung của xã hội.

Thứ tư, xây dựng nền tư pháp đặt trên nguyên tắc cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép, làm tốt nhất có thể với tinh thần liêm chính, tự giác dựa vào pháp luật, bằng pháp luật phục vụ Nhân dân một cách có trách nhiệm.

Thứ năm, xây dựng nền tư pháp bảo đảm sự kiểm soát của Nhân dân đối với cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp; nền tư pháp có tính minh bạch, dân chủ, triệt để thực hiện trách nhiệm giải trình, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

Thứ sáu, xây dựng nền tư pháp tạo điều kiện cho việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp trong thực thi công vụ; đồng thời, để có một hệ thống tư pháp đúng nghĩa, cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp phải thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, có đạo đức nghề nghiệp liêm chính. Bởi lẽ, không có đạo đức liêm chính thì có tài giỏi đến mấy, cán bộ, công chức, người giữ chức danh tư pháp cũng không thể phục vụ Nhân dân và phụng sự Tổ quốc.

Cao Minh Công

Hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

(Kiemsat.vn) - Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã nghiên cứu để nội luật hóa quyền im lặng vào pháp luật trong nước. Gắn với quá trình cải cách tư pháp hiện nay, quy định về quyền im lặng vừa là động lực để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thay đổi tư duy, phương pháp giải quyết vụ án hình sự; đồng thời là căn cứ, cơ sở để người bị buộc tội bảo vệ tối đa quyền của mình trước quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội từ phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang