Bảo đảm hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

20/05/2024 14:33

(kiemsat.vn)
Để bảo đảm sự vận hành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả, đúng mục đích, chống lạm quyền, cần xác định các điều kiện bảo đảm, trong đó nhấn mạnh về sự lãnh đạo của Đảng và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ chế pháp lý cần và đủ để các cơ quan nhà nước kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, người dân kiểm soát được việc thực hiện quyền lực của các cơ quan này…

1. Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước và các điều kiện bảo đảm

Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước được hiểu gồm tổng thể các quy phạm luật hiến pháp và pháp luật xác định phương thức, nội dung và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trong quá trình tổ chức và hoạt động, nhằm bảo đảm quyền lực Nhà nước được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.

Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay, có thể nhận thấy hai cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước chủ yếu là: Cơ chế kiểm soát bên trong hệ thống Nhà nước được hình thành trên cơ sở sự phân công quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, sự kiểm soát quyền lực Nhà nước của các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp; cơ chế kiểm soát bên ngoài hệ thống Nhà nước, được thực hiện bởi Nhân dân.

Mặc dù Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật đã quy định rõ phương thức, nội dung, hình thức vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, nhưng để cơ chế này ngày càng hoàn thiện và vận hành hiệu quả, đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện các điều kiện bảo đảm sau:

Bảo đảm chính trị: Bảo đảm chính trị được hiểu là việc Đảng và Nhà nước tạo môi trường chính trị ổn định, bền vững, từ những chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực và được Nhà nước thể chế hóa thành các quy định của pháp luật.

Kiểm soát quyền lực Nhà nước được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, đáp ứng yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này được thể hiện ở nhiều văn kiện khác nhau, đặc biệt tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung, phát triển năm 2011 và Hiến pháp năm 2013. Đây cũng là cơ sở, điều kiện chính trị quan trọng nhằm bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực vận hành hiệu quả, biểu hiện thông qua sự lãnh đạo xây dựng Hiến pháp, pháp luật.

Nhà nước xác lập và tạo môi trường dân chủ trong mọi tổ chức và hoạt động quản lý xã hội. Theo đó, Nhà nước tạo một thể chế chính trị dân chủ, các quyền con người, quyền công dân được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực tế thông qua hệ thống chính sách pháp luật đồng bộ, rõ ràng, thống nhất, đầy đủ. Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý để công dân được tự quyết định bầu ra người đại diện cho mình thực hiện quyền lực Nhà nước (thông qua bầu cử) và kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước của những người đại diện đó.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, chịu sự kiểm soát và chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Do vậy, chỉ khi Nhà nước tạo môi trường chính trị dân chủ thì cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bởi Nhân dân mới có thể vận hành hiệu quả; bảo đảm sự ổn định trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước; bảo đảm thực hiện kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa các cơ quan ngày một hiệu quả hơn.

Bảo đảm pháp lý: Nhà nước thiết lập các yếu tố về thể chế, thiết chế, qua đó mọi cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động trong điều kiện kiểm soát quyền lực Nhà nước, nhưng có sự phân công, phối hợp với nhau.

Về thể chế, các bảo đảm về thể chế được thể hiện thông qua Hiến pháp, luật, nghị quyết (do Quốc hội, là cơ quan thực hiện quyền lập pháp thông qua) và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành có nội dung liên quan đến kiểm soát quyền lực Nhà nước (như pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư,…). Ở nước ta, Hiến pháp là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất quy định những nội dung cơ bản làm căn cứ cho toàn bộ hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực Nhà nước. Các quy định tại Hiến pháp năm 2013 về kiểm soát quyền lực Nhà nước cần được cụ thể hóa, đảm bảo tính khả thi, hay “đảm bảo Hiến pháp được thi hành như một trong những phương pháp hữu hiệu nhất của sự kiểm soát quyền lực Nhà nước”. Mặt khác, trên cơ sở hiến định “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”, tinh thần này cần được cụ thể hoá tại các văn bản quy phạm pháp luật để người dân tự bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của mình và nhận được sự bảo vệ, bảo đảm từ phía các cơ quan Nhà nước.

Về thiết chế, hệ thống tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được thiết lập trên cơ sở các quy định của pháp luật trong từng lĩnh vực của từng cơ quan Nhà nước. Việc thiết lập thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước góp phần bảo đảm củng cố và phát triển sự bền vững của một quốc gia.

Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước bên ngoài, Nhân dân thực hiện quyền kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua các tổ chức chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp; các phương tiện thông tin đại chúng, các thiết chế dân chủ cơ sở… Do đó, đòi hỏi các thiết chế của các tổ chức trên phải hoàn thiện, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của người dân.

Bảo đảm pháp lý là một trong những bảo đảm tác động trực tiếp đến hiệu quả vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, bởi mỗi thể chế, thiết chế vừa là chủ thể, đối tượng và nội dung của hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước. Nếu thể chế bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ, thì các thiết chế sử dụng quyền lực Nhà nước sẽ được tổ chức khoa học, tinh gọn, bảo đảm các điều kiện pháp lý tốt nhất để hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, sự tác động, phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực, để cơ chế được vận hành thông suốt, hiệu quả, công khai, minh bạch. Sự hoàn thiện của hệ thống thể chế, thiết chế không những là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước đúng mục đích, mà còn là cơ sở cho người dân kiểm soát quyền lực Nhà nước một cách cụ thể nhất.

Bảo đảm kinh tế, văn hóa - xã hội: Các điều kiện bảo đảm về kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thiện và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, có tầm ảnh hưởng lớn tới hiệu quả thực hiện cơ chế này.

Điều kiện kinh tế phát triển với các tiền đề vật chất được thiết lập là nền tảng để Nhà nước tạo môi trường dân chủ và cũng là cơ sở để Nhà nước xác lập các thể chế, thiết chế hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, những điều kiện vật chất là cơ sở phát triển trình độ dân trí; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao sẽ làm tăng nhận thức về pháp luật, từ đó, họ có thể hiểu và tự thực hiện các quyền con người, quyền công dân được Nhà nước ghi nhận, trong đó có quyền làm chủ và kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Nếu các bảo đảm về pháp lý được quy định đầy đủ, nhưng trình độ dân trí thấp thì những quy định của pháp luật không thể đi vào đời sống xã hội, người dân không thể thực hiện các quyền của mình. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả vận hành của cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước. Có thể nói, trình độ dân trí là cơ sở để Nhà nước thiết lập một môi trường dân chủ, một xã hội dân chủ văn minh, do đó, Nhà nước cần thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với từng loại đối tượng, vùng miền.

Ngoài các bảo đảm nói trên, cần chú ý đến các điều kiện về lịch sử, dân tộc, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, bởi những điều kiện này ảnh hưởng đến sự phù hợp trong việc hoạch định chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa thể chế và thiết chế, giữa nội dung, phương thức và các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực.

2. Một số hạn chế từ thực tiễn thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước

Thứ nhất, về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong quá trình vận hành cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước. Thời gian qua, sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã đảm bảo các nguyên tắc hiến định, luật định, bảo đảm phát huy dân chủ trong mọi hoạt động quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế từ phương thức lãnh đạo của Đảng đã được Đại hội XIII xác định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng”.

Thứ hai, kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập pháp được thực hiện thông qua các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập pháp; đồng thời, thông qua các quy định khác về cơ cấu tổ chức, bộ máy và hoạt động của cơ quan nhà nước có liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện còn một số hạn chế, tồn tại dẫn đến hiệu quả kiểm soát chưa cao. Chẳng hạn, có lúc, có nơi, chất lượng ý kiến đóng góp xây dựng luật còn mang tính hình thức, nhất là đối với vấn đề phức tạp; thời gian các cơ quan hữu quan tham gia soạn thảo, góp ý xây dựng luật còn chưa thỏa đáng.

- Hoạt động kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp còn chưa thường xuyên, do cơ quan lập pháp kiểm soát thông qua báo cáo, chất vấn tại các kỳ họp (kiểm soát bằng văn bản) nên đôi khi còn hình thức.

- Các quy định về quyền giám sát của Tòa án nhân dân đối với cơ quan hành pháp, lập pháp vẫn còn bất cập; chưa có quy định cụ thể về Tòa án nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (thông qua việc Tòa hành chính xét xử các quyết định hành chính và hành vi hành chính), thực hiện quyền kiến nghị, đề xuất đối với các cơ quan nhà nước khi phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan đó trái Hiến pháp, trách nhiệm giải quyết của các cơ quan khi nhận được kiến nghị.

- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa thực sự phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, đặc biệt đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp; chưa thực sự chủ động, độc lập và chịu trách nhiệm cho việc thực hiện chức năng “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân”.

Thứ ba, hiện nay, trình độ dân trí còn hạn chế, có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là người dân ở những vùng sâu, vùng xa. Số người biết rõ về quyền của mình, hiểu cách sử dụng quyền, cách bảo vệ quyền và sử dụng công cụ bảo vệ quyền còn hạn chế; 90% nông dân chưa hiểu biết về pháp luật, trong số đó có 50% không hiểu biết, ở vùng cao, vùng sâu, thậm chí nhiều người còn không hiểu luật sư là ai, làm việc gì. Do vậy, người dân chưa phát huy được vai trò làm chủ quyền lực Nhà nước, chưa sử dụng hiệu quả quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận…

Thứ tư, trách nhiệm của người đứng đầu trong một số cơ quan Nhà nước chưa rõ nét, chưa thể hiện tính chủ động, dám nghĩ dám làm, hành động vì lợi ích của tập thể.

3. Một số đề xuất nhằm bảo đảm hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về sự lãnh đạo của Đảng, những chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước nhằm tạo hành lang chính trị, pháp lý ổn định, tạo môi trường để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân - chủ thể của quyền lực Nhà nước. Đại hội Đảng khóa XIII đã xác định “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới…; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp…; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng…” nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện các quyền này. Nhằm kiểm soát tính hợp hiến của các văn bản luật, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế tự kiểm soát của cơ quan lập pháp, cần sớm cụ thể hóa quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 2013 về: “… Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý…” và “… Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.

Thứ ba, tiếp tục nâng cao trình độ dân trí qua việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (đa dạng hóa các loại hình) và củng cố niềm tin của người dân đối với pháp luật, Đảng và Nhà nước; bảo đảm các quyền công dân được thực hiện trên thực tế, bảo đảm tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước; đẩy mạnh cải cách tư pháp.

Thứ tư, tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; luật hóa quy định về giám sát và phản biện xã hội.

Thứ năm, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho người đứng đầu các cơ quan Nhà nước; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân; hoàn thiện quy định về nguyên tắc, cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy lãnh đạo.

Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra, xác minh sơ bộ nguồn tin về tội phạm của Công an cấp xã

(Kiemsat.vn) - Hiện nay, quy định về công tác nắm bắt, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, xác minh sơ bộ nguồn tin về tội phạm của Công an cấp xã chưa cụ thể, rõ ràng như: Chưa quy định trách nhiệm thông báo bằng văn bản của Công an cấp xã cho người tố giác, Viện kiểm sát; chưa hướng dẫn trình tự, thủ tục, cách thức thông báo việc người phạm tội đầu thú, tự thú tại Công an cấp xã cho Viện kiểm sát.

Kinh nghiệm xây dựng sơ đồ tư duy báo cáo án hình sự

(Kiemsat.vn) - Báo cáo án hình sự thông qua sơ đồ tư duy là công cụ minh họa, trình chiếu tại cuộc họp như một bức tranh tổng thể của vụ án hình sự, chỉ ra mối liên kết giữa các thông tin, sự kiện, vấn đề chính, cũng như nhận dạng và tìm ra bản chất của vấn đề cần làm rõ trong vụ án một cách logic, chính xác và hiệu quả; giúp cho lãnh đạo tiếp cận và nắm bắt vụ án nhanh, đầy đủ, toàn diện.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang